Anh Hai Vương Đình Lâm Và Di Sản Tâm Linh

ANH HAI VÀ DI SẢN TÂM LINH

Vương Đình Chữ

Anh Hai của em, Viện Phụ Duy Ân (Gioan) Vương Đình Lâm, với tư cách là đan sĩ, là Viện Phụ Dòng Xito Phước Sơn, kiêm Viện Phụ Hội Trưởng Hội Dòng Xito Thánh Gia Việt Nam, trong suốt 35 năm (1970-2005), có lẽ là dài lâu nhất trong đời các Viện Phụ ở Việt Nam, đã để lại nhiều dấu ấn, vừa do độ dài của thời gian đảm đương trách nhiệm, vừa do đức độ và tài năng. Vì vậy, Anh Hai được nhiều người quý mến, tri ân; riêng em còn thêm phần ngưỡng mộ.

Anh Tư Phi Khanh đã kể lại cuộc đời của anh Hai khá chi tiết, em không lặp lại ở đây, mà chỉ nêu lại các di sản của anh Hai, nhất là di sản tinh thần.

1 - Di sản hữu hình

a/ Cơ sở vật chất

Dễ thấy nhất là các công trình xây dựng, khởi đầu ngay sau khi được bầu làm Viên Phụ (22-11-1970), Anh Hai đã bắt tay vào việc xây dựng: từ năm 1971 đến 1974, Anh đã hoàn thành các cơ sở cần thiết cho Dòng và cho đệ tử viện tại Long Thành Mỹ, Thủ Đức. Chỉ tiếc rằng cơ sở này đã bị tịch thu! Điều đặc biệt là Anh Hai rất coi trọng việc hội nhập văn hóa theo yêu cầu của Công đồng Vatican II và của Liên Hội Đồng Giám mục Á Châu, do vậy, các công trình chính như nhà thờ hay nhà nguyện đều mang đường nét Á Đông. Và điều này, anh thực hiện cho đến cuối đời. Tiêu biểu, có thể kể: nguyên đường Nhà Cha tại Phước Lộc, được xem như Nhà Mẹ Phước Sơn, theo hình bát giác với nhiều biểu tượng văn hóa Việt Nam (1999), nhà nguyện của Đan viện nữ Vĩnh Phước,theo kiểu dáng cái đình làng Việt Nam (2001). Có thể kể thêm các dấu ấn xây dựng của Anh Hai tại Thiên Phước (Bãi Dâu), tại đan viện nữ Phước Hải, một công trình nằm trên sườn núi mà việc phá đá, san mặt bằng và chuyên chở vật liệu từ dưới thấp lên là cả một “kỳ công”. Những năm cuối đời, từ khi ở sa mạc Cali (Lucerne Valley) về hưu tại Phước Lộc, anh Hai còn hằng ngày chống gậy sang góp ý và chỉnh sửa cơ sở của đan viện nữ Phước Thiên. Có thể nói, trong hơn 40 năm (1971 – 2015), Anh Hai liên tục xây dựng! Cho đến khi bị đột quỵ (15-1-2015) mới thôi.

b/ Các cộng đoàn

Cơ sở vật chất là điều cần thiết nhưng điều quan trọng hơn là sự phát triển của Hội Dòng. Với tư cách là Viện Phụ Hội Trưởng , Anh Hai đã phần nào tác động lên sự gia tăng của các cộng đoàn, cách riêng với Dòng Phước Sơn mà anh Hai là Viện Phụ trực hệ.

Khi còn là Giám đốc Đệ tử viện Phước Sơn, (1964 – 1970), năm 1968, Anh Hai đã mua đất ở Bãi Dâu, nơi đây chính thức lập cộng đoàn năm 1975 và trở thành Đan Phụ viện năm 2009.

Người xưa nói “trong họa có phúc”. Quả vậy, biến cố tháng 4-1975 xảy đến như một tai họa, nhưng ngờ đâu mà nhiều cộng đoàn được khai sinh, như Thiên Phước trên đây và như Phước Vĩnh (Vĩnh Kim, Trà Vinh), cũng được hình thành năm 1975 và trở thành Đan phụ viện năm 2016

Có thể kể thêm cộng đoàn Fatima ở Thụy Sĩ, được thành lập năm 1975 và 30 năm sau, một cộng Lucerne Valley, Hoa Kỳ (2005).

Và không thể không nhắc đến 3 đan viện nữ Xito mà với tư cách Viện Phụ Hội Trưởng, Anh Hai đã ưu ái quan tâm đặc biệt: từ linh đạo, tu đức cho đến tìm địa điểm, mua đất và xây dựng. Đan viện Vĩnh Phước hình thành năm 1972, phát triển vượt bực với hai nhà con Phước Thiên (1976) và Phước Hải (1978), còn chỉnh bản thân Vĩnh Phước đa trở thành một Đan Mẫu viện năm 2016.

c/ Cơ sở đào tạo 

Mỗi cộng đoàn là một cơ sở đào tạo thường xuyên và hằng ngày. Nhưng cuốc sống đan tu cũng đòi hỏi phải được đào tạo bài bản hơn, nhất là đối với các đan sĩ hướng đến chức linh mục. Từ khi Nhà nước VN chủ trương đổi mới, thông thoáng về kinh tế và xã hội, Hội Dòng Xito Thánh Gia cũng hướng đến việc thành lập các cơ sở đào tạo chuyên sâu. Anh Hai tâm sự với Anh Tư Phi Khanh: “Trong bối cảnh chung đó, Hội Dòng Xitô Thánh Gia, sau nhiều cố gắng hợp tác giữa các Đan Viện tự trị, đã thành lập được Ban Giáo Dục Hội Dòng năm 1990, vào thời điểm Chúa ban cho Hội Dòng nhiều ơn gọi mới, đặc biệt từ các giáo phận Miền Bắc. Ban Giáo Dục Hội Dòng hoạt động nhiệt tình với nhiều sáng kiến, đặc biệt trong việc tổ chức nhiều cuộc tĩnh huấn dành cho mọi lứa tuổi và thành phần, kể cả những Đan sĩ cao niên, và những Vị Đặc Trách Huấn Luyện trong các giai đoạn khác nhau, từ Thỉnh sinh, Tập sinh, Khấn Tạm, đến Khấn trọng. Các sinh hoạt phong phú đó dẫn tới việc thành lập Học Viện Triết Học riêng cho Hội Dòng vào năm 1999, là năm hoàn thành công trình xây dựng Đan Viện Thánh Mẫu Phước Sơn và cung hiến nguyện đường “NHÀ CHA . Trong năm 2005, trước khi Anh thôi làm Viện Phụ Hội Trưởng thì Tổng Hội của Hội Dòng Xitô Thánh Gia đã quyệt định thành lập Học Viện Thần Học riêng cho toàn Hội Dòng”

d/ Trước tác và ghi chép

Anh Hai chịu chức Linh mục ngày 24-8-1957, tính đến khi Anh mất  là 61 năm, nếu không kể 4 năm từ khi đột quỵ (2015-2018), cũng là 57 năm, với chức linh mục hoạt động. Nghĩa là Anh Hai đã có biết bao bài giảng, huấn đức, phát biểu trong các kỳ Tổng Hội, trong các kỳ tĩnh tâm…Không biết, có ai còn lưu giữ những bài đó không?

Nhưng ít ra, Anh Hai đã để lại một công trình ý nghĩa. Anh Hai chia sẻ với Anh Tư Phi Khanh: “Anh đã dành nhiều thời gian để sưu tập, phiên dịch, chú thích và sắp xếp các bút tích của Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, còn được lưu giữ đến nay tại nhiều nơi. Tập sách mang tên Di Ngôn Cha Biển Đức Thuận, Đấng Sáng Lập Hội Dòng Xitô Thánh Gia (1880-1933), xuất bản lần đầu năm 1993, tái bản năm 2003”

Cũng có thể kể vào lãnh vực này một sáng kiến khác của Anh Hai: 

Vào năm 1971-1972, lúc Anh mới bắt đầu nhiệm kỳ Hội Trưởng, thì Tổng Hội đã quyết định cho ra đời Tờ Nội San mang tên “Nội San Liên Lạc Thánh Gia”, nhưng chỉ mới ra được 6 số thì ngưng. Và từ năm 1975 trở đi không ai dám nghĩ tới việc nuôi dưỡng một tờ tập san, cho đến năm 2005, trước khi Anh thôi làm Hội Trưởng, Anh đề nghị Tổng Hội nên làm sống lại “Nội San Liên Lạc Thánh Gia”, mà Anh đề nghị gọi bằng tên mới là “Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm”. Tổng Hội đồng ý. Anh không ngờ tập san này đã tạo ra một bầu khí hào hứng và giúp Đại Gia Đình Hội Dòng đào sâu những đề tài thiết thực của đời sống đan tu chiêm niệm”. 

Một chi tiết ít người để ý: Anh Hai được tín nhiệm kiểm duyệt và ký “imprimi potest” (có thể được in) cho cuốn Kinh Thánh trọn bộ, do Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ thực hiện. Bản Tân Ước ký ngày 01-5-1993, bản Cựu ước, ngày 29-4-1998.

2- Di sản tâm linh

Nói đến tâm linh là nói đến điều phi vật chất, vô hình. Nhưng tâm linh cũng được thể hiện qua câu viết, lời nói hay hành động.

Về đời sống tâm linh của Anh Hai, quả là em biết rất ít, lý do đơn giản là vì em không có nhiều thời gian sống cạnh Anh Hai, không được trực tiếp nghe Anh giảng dạy hay tâm sự. Khi phỏng vấn ở sa mạc, anh Tư Phi Khanh cũng không đề cập đến lãnh vực này. 

Khi ghi lại tiểu sử Anh Hai, Anh Khởi không khai thác khía cạnh tâm linh mà Anh Hai thể hiện trong các biến cố, và đây chính là vấn đề chúng tôi tò mò tìm hiểu.

Có thể có người cho rằng chúng tôi tuy là em ruột nhưng là một người “xa cách”, biết gì mà nói! Đúng là xa cách thật. Vì khi Anh rời nhà đi tu (1946) thì em mới chào đời được nửa năm (12/1945), lần đầu được gặp Anh có lẽ vào khoảng năm 1964, 1965 khi em học ở Đệ tử viện Dòng Chúa Cứu Thế (từ Vùng Tàu dời về Chợ Lớn), sau đó, khi ở quân trường Thủ Đức, Anh đôi lần ghé thăm. Từ năm 1970, tôi về Sài Gòn sinh sống, thỉnh thoảng anh em gặp nhau. Từ sau khi Anh bị tai biến, em đến thăm Bác nhiều hơn, vì trong anh em, em là người sống gần Bác nhất và là người tổ chức 3 chuyến đi xa cho Anh (2 chuyến đi Đà Lạt, 1 chuyến đi Phan Thiết, Tà Pao).

Nhưng trong tất cả các cuộc gặp này, chỉ là những chuyện thăm hỏi thông thường, Anh Hai có nhắc nhở về sống đạo, về đức tin nhưng chẳng bao giờ đề cập đến tâm linh như một chủ đề riêng biệt.

Do vậy, phần tiếp sau đây phần lớn là do suy diễn dựa trên những chất liệu ít ỏi, như châm ngôn Viện Phụ, như hai “di ngôn” Anh Hai hay nêu với cộng đoàn và các em, các cháu trong gia đình và cuối cùng là dựa theo một nhận định của Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn.

a/ Châm ngôn Viện phụ

Theo truyền thống, các Viện phụ, giống như các Giám mục, khi được bầu chọn, đều có riêng cho mình một câu châm ngôn mục vụ. Khi được bầu chọn, Anh Hai đã lấy câu “CHÚA KITÔ TRONG ANH EM” làm châm ngôn phục vụ của mình.

Châm ngôn này có thể là từ cảm hứng của Tin Mừng của Chúa Giesu, khi ngài nói người nghèo là hình ảnh của chính Ngài.

Cũng có thể là từ cảm hứng của những lời dạy của Thánh Phaolo: 

  • Giữa anh  em với nhau, anh  em hãy có những tâm tình như Đức Kito Giesu” (Cl.2,4) 

  • “mà anh em thuộc về Đức Kito” (1 Cr. 3, 23)

  • “Chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giesu” (2Cr, 4,5)

  • “Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em là con cái Thiên Chúa trong Đức Giesu Kito. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kito, đều mặc lấy Đức Kito” (Gl. 3, 26-27)

  • “chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh  em như cha với con” (1 Tx.2,11” )

  • “Phải chính anh em là vinh quang và là niềm vui của chúng tôi” (1Tx. 2,20)

  • “Tôi cảm tạ TC của tôi mỗi lần nhớ đến anh em. Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh  em hết thảy […] vì tôi mang anh  em trong lòng tôi” (Ph. 1, 3-7)

Có thể hiểu rằng Chúa Kito được đặt vào vị trí trung tâm của đời sống đan tu, từ Viện Phụ cho đến các đan sĩ.

Cũng có thể hiểu rằng Viện Phụ đề cao và tôn trọng anh em vì nhìn thấy hình ảnh Chúa Kito nơi từng đan sĩ.

Do vậy, Viện Phụ cam kết phục vụ anh em hết mình, như một mục tử tốt lành, sẵn sàng hy sinh vì đàn chiên.

b/ Nhảy theo nhịp điệu của Chúa

Có thể nói rằng đây là một đúc kết, sau một quá trình dài 40 năm cảm nghiệm được các biến cố xảy ra cho cá nhân và cho các cộng đoàn của Hội Dòng, nhất là từ sau năm 1975 cho đến khi bị đột quỵ (2015).

Chắc hẳn, cả cuộc đời, Anh Hai luôn phó thác và tin tưởng vào Chúa, nhưng trong những hoàn cảnh thuận lợi, mình có thể vạch cho mình các kế hoạch và cứ theo đó mà thực hiện.

Nhưng đến lúc tình hình bị đảo lộn, mọi dự tính của mình, có khi xem ra hay ho, lại không thể thực hiện được, hoặc làm một đàng, nó ra một nẻo. Hoặc trong những tình thế hầu như bất lực, Chúa lại gửi đến cho một tia sáng chỉ đường. Quả là Anh Hai đã nhiều khi bất lực, dẫn đến âu lo và trầm cảm, suy nhược thần kinh. Trong những năm cẳng thẳng, Anh Hai lâu lâu lại bị một trận mất ngủ, thức trắng nhiều đêm, liên tục vã mồ hôi. Nhà Dòng phải ra sức chăm lo và tẩm bổ, Anh Hai mới hồi phục được.

Sau nhiều thăng trầm của cuộc đời, sau những cái được, cái mất, Anh Hai đã ngộ ra rằng “tất cả là hông ân”. Và vì là hồng ân nên vững tin vào Chúa, bất kể điều gì xảy đến và an tâm theo Ngài. Từ đó, Anh Hai đã rút ra một châm ngôn sống cho mình và truyền bá cho người khác, qua một câu nói khá hình tượng: “Nhảy theo nhịp điệu của Chúa”.

Nhảy múa thường là để bày tỏ niềm vui, như trong Xuất hành: “Nữ ngôn sứ Miriam, em ông Aharon, cầm lấy trống; mọi thiếu nữ theo bà đi ra, đánh trống và nhảy múa. Bà Miriam xướng lên rằng: “Hãy hát mừng Đức Chúa, Đấng cao cả uy hùng, kỵ binh cùng chiến mã, Ngươi xô xuống đại dương”. (Xh. 32, 19)

Nhưng nhảy cũng có thể do bị sai khiến như con rối, hay chủ động nhảy theo ý của ông chủ, là Thiên Chúa.

Lưu ý: “nhảy” chứ không phải bước. “Bước”, có khi bước dài, bước ngắn nhưng vẫn khoan thai. Còn “nhảy” là một động tác bị thúc đẩy, phần lớn do hứng khởi, do dấn thân cao độ. Nhịp điệu nhảy khi nhanh khi chậm, có khi nhảy lui, có khi nhảy tới, có khi sang phải, có khi sang trái. Có khi phải nhảy qua hố, qua rào cản… Tất cả đều “theo nhịp điệu của Chúa”, nghĩa là theo Thánh Ý của Ngài và qua sự soi dẫn của Chúa Thánh Linh.

c/ Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh

d/ Lòng kính mến Đức Mẹ 

          . Đức Mẹ Chỉ bảo Đàng lành

          . Đức Mẹ chiêm niệm

e/ Anh Hai – Gióp

Ngoài ra, Anh nhớ mãi một câu của Đức Hồng Y Gioan-Baotixita Phạm Minh Mẫn nói với Anh khi Anh đến chào ngài để sang Hoa Kỳ mở tu sở mới tại California vào cuối tháng 9 năm 2005: “Viện Phụ Duy Ân giống như Ông Gióp giai đoạn hai[1]. Ngài nêu tên Anh, vi Anh là Hội Trưởng, đại diện cho Hội Dòng Xitô Thánh Gia, nhưng trong thực tế là chính toàn thể Hội Dòng đã trải qua nhiều thử thách lớn lao, với nhiều anh em bị tù đày, một số thành viên chết trong tù và mất hai Đan viện lớn (Phước Sơn Quảng Trị và Phước Sơn Thủ Đức), nhưng vào năm 2005 Thiên Chúa chúc lành cho Hội Dòng và cho nhân số tăng lên gấp bội với hơn 1000 thành viên, sống trong 10 Đan Viện tự trị, 8 Đan Viện Nam Xitô: Phước Sơn Nhà Mẹ tại Phước Lộc, Châu Sơn Nho Quan, Châu Sơn Đơn Dương, Phước Lý Xoài Minh, Châu Thuỷ Lagi, Thiên Phước Vũng Tàu, Phước Vĩnh Trà Vinh, Fatima Orsonnens tại Thuỵ Sĩ; và 2 Nữ Đan Viện Xitô: Vĩnh Phước Ngọc Đồng, với Nhà Con Phước Hải Vũng Tàu. Vài cộng đoàn khác, như An Phước (nam Xitô) tại Long Thành, và Phước Thiên (nữ Xitô) tại Hải Sơn Bà Rịa trên đà phát triển mạnh mẽ, thì sớm muộn gì cũng sẽ tiến lên hàng Đan Viện tự trị thôi.

Cộng đoàn Thánh Giuse tại sa mạc Lucern Valley, nơi em đang phỏng vấn Anh trong năm 2012 này, mà Anh được bổ nhiệm làm Bề trên tiên khởi, cũng đang trên đà xây dựng và phát triển, hy vọng sẽ có ngày trở thành một Đan Viện Tự Trị. Ngoài ra, hầu hết các Đan Viện Tự Trị nhánh nam cũng như nhánh nữ, trong đó một số đã được nâng lên hàng Đan Phụ Viện, đều đã lập một số tu sở, ở nội địa cũng như ở nước ngoài, như Hoa Kỳ, Thái Lan… Điều đó cho thấy Hội Dòng Xitô Thánh Gia đang tăng trưởng với phép lành của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, sau khi trải qua nhiều thử thách đau thương. Vậy chính Hội Dòng Xitô Thánh Gia vào năm 2005 là “Ông Gióp giai đoạn hai” theo cách nói ví von của ĐHY Phạm Minh Mẫn.

 

 

BA ĐIỂM NHẤN TÂM LINH

TRONG ĐỜI BÁC LÂM

Bác Lâm sinh ngày 30-10-1930, mất ngày 7-2-2019, tính thêm “tuổi mụ” thì thọ chẵn 90.

Cuộc đời của Bác đã được bác Khởi ghi lại khá chi tiết, qua hai ngày phỏng vấn tại Đan viện Thánh Giuse, trong sa mạc Lucerne Valley, hồi tháng 7-2012, ở đây, chỉ ghi lại vài cột mốc có liên quan đến nội dung muốn nêu.

Năm 1946, Bác Lâm vào đệ tử viện Dòng Phước Sơn tại Quảng Trị. Năm 1953, vì chiến tranh, dòng rời bỏ Quảng Trị vào Nam. Theo lịch sử dòng, đây là cuộc xuất hành lần thứ nhất.

Tháng 7-1954, Bác Lâm (cùng với chú Bích) được nhà dòng cử sang Thụy Sĩ du học. Tại đây, Bác được chịu chức linh mục ngày 24-8-1957. Bác lần lượt lấy bằng Cử nhân Thần học (1958), Tiến sĩ Thần học (1961) và Cử nhân Kinh Thánh (1963).

Hè năm 1963, Bác hồi hương, về lại Sài Gòn và tháng 10 năm đó, Bác được bổ nhiệm làm Giám đốc Đệ tử viện Phước Sơn tại Thủ Đức. Ngoài việc đào tạo các chú theo chương trình và mục đích của dòng, một dấu ấn lớn Bác để lại trong thời kỳ này là các công trình xây dựng quy củ và tiện lợi vì trước đó, nhà cửa mới chỉ là tạm bợ.

Ngày 21-11-1970, Bác được bầu chọn làm Viện Phụ Phước Sơn, kiêm Viện Phụ Hội trưởng Hội Dòng Xito Thánh Gia Việt Nam. Công việc nhiều hơn với quy mô lớn hơn, trách nhiệm nặng nề hơn, trong đó, có việc xây dựng mới toàn bộ cơ sở của Đan viện Phước Sơn Thủ Đức (hình thành năm 1953, nhà tôn vách ván) mà nổi bật nhất là ngôi nguyện đường mang dáng dấp kiến trúc Châu Á, được Đức TGM Nguyễn Văn Bình đến thánh hiến ngày 15-7-1974.

Những tưởng từ đây, đời sống chiêm niệm trong tĩnh lặng của các đan sĩ sẽ dần đi vào nề nếp, ổn định và bình an lâu dài, nhưng xảy ra biến cố tháng 4-1975, xã hội hoàn toàn bị đảo lộn. Những đảo lộn này đã vượt bức tường nội vi đan viện ngày 21-1-1978 khi công quyền tràn vào lục soát, bắt một số đan sĩ, trục xuất các đan sĩ khác và sau đó, tịch thu toàn bộ cơ sở. Khi biến cố này xảy ra, Bác Lâm đang ở Thánh Mẫu, Đà Lạt, thăm mẹ bị bệnh. Sau đó, Bác bị giam 3 tháng. Các đan sĩ tứ tán nhiều nơi. Theo lịch sử dòng, đây là cuộc xuất hành lần thứ hai.

Có thể nói trong hơn một thập niên sau đó (1978-1990) là thời kỳ khốn đốn của Đan viện Phước Sơn, có lúc tưởng chừng có thể tan vỡ, dưới con mắt thế gian. Nhưng Chúa vẫn luôn có đó, Ngài luôn đồng hành và Ngài có kế hoạch của Ngài, miễn là có người thực thi. Bác Lâm đã là một công cụ của Chúa trong giai đoạn này, một công cụ hữu ích thiết thực nên Bác đã được anh em tín nhiệm, bầu lại nhiều lần làm Viện phụ, một chức vụ mà Bác đảm nhận cho đến ngày 30-10-2005, đúng 35 năm, có lẽ dài nhất trong các đời Viện phụ của Phước Sơn.

Sau khi các chức vụ, Bác tiếp tục phần đóng góp của mình vào công việc dòng, trong đó, có viêc thành lập một tu sở tại Mỹ, nơi Bác khởi đầu từ tháng 9-2005 và sau đó được cử làm Bề trên tiên khởi.

Bác từ Mỹ về lại Việt Nam năm 2012, hưu dưỡng tại Nhà Mẹ Phước Sơn tại Phước Lộc, tiếp tục giúp các chị Đan Viện Phước Thiên trong công việc xây dựng.

Ngày 15-01-2015, Bác bị tai biến, liệt nửa người. Nhà dòng đã hết sức chữa trị nhưng bất thành. Từ đây cho đến cuối đời, Bác gắn bó với chiếc xe lăn, sống hoàn toàn tùy thuộc vào sự chăm sóc của các đan sĩ, điều may là đầu óc vẫn tỉnh táo.

Đầu năm 2019, Bác được đi Đà Lạt, đồng tế mừng Kim khánh Linh mục bác Khởi (10-01-2019).

Ngày 7-2-2019 (mồng 3 Tết Kỷ Hợi), lúc 12g30, Bác được Chúa cất về.

Trong một cuộc đời dài như vậy, biết bao biến cố lớn nhỏ đã xảy ra cho Bác.

Có thể xem biến cố lớn đầu tiên là quyết định đi tu Phước Sơn năm 1946 và sau đó, liên tiếp các biến cố khác, như đã được bác Khởi ghi lại.

Khi ghi lại tiểu sử Bác Lâm, bác Khởi không khai thác khía cạnh tâm linh mà Bác Lâm thể hiện trong các biến cố, và đây chính là vấn đề chúng tôi tò mò tìm hiểu.

Có thể có người cho rằng chúng tôi tuy là em ruột nhưng là một người “xa cách”, biết gì mà nói! Đúng là xa cách thật. Vì khi Bác rời nhà đi tu (1946) thì tôi mới chào đời được nửa năm (12/1945), lần đầu được gặp Bác có lẽ vào khoảng năm 1964, 1965 khi tôi học ở Đệ tử viện Dòng Chúa Cứu Thế (từ Vùng Tàu dời về Chợ Lớn), sau đó, khi ở quân trường Thủ Đức, Bác đôi lần ghé thăm. Từ năm 1970, tôi về Sài Gòn sinh sống, thỉnh thoảng anh em gặp nhau. Từ sau khi Bác bị tai biến, tôi đến thăm Bác nhiều hơn, vì trong anh em, tôi là người sống gần Bác nhất và là người tổ chức 3 chuyến đi xa cho Bác (2 chuyến đi Đà Lạt, 1 chuyến đi Phan Thiết, Tà Pao).

Nhưng trong tất cả các cuộc gặp này, chỉ là những chuyện thăm hỏi thông thường, Bác có nhắc nhở về sống đạo, về đức tin nhưng chẳng bao giờ đề cập đến tâm linh như một chủ đề riêng biệt.

Trong cuộc đời, Bác đã cử hành biết bao thánh lễ, với biết bao bài giảng. Rồi trong các dịp tĩnh tâm, thường huấn, tổng tu nghị, khấn dòng, các dịp kỷ niệm… Bác đã bao lần chia sẻ về cảm thức tâm linh, sống đạo. Tôi không có đó để lãnh nhận. Nhưng, một đàng vì lòng mộ mến Bác, một đàng muốn bắt chước Bác trên bước đường sống đức tin, tôi muốn tìm về tận nguồn những cảm nhận đức tin của Bác, những nguồn cội đã hướng dẫn Bác trong các ứng xử, đối phó trước các biến cố xảy ra, mà đa phần là nặng gánhtrách nhiệm và gian lao, khốn khó.

Trong chiều hướng đó và dựa trên những điều rất ít nghe biết về Bác, qua nhiều người khác, hoặc được đích thân nghe Bác nói, tôi nhận ra nơi cuộc đời Bác 3 biến cố lớn và kèm với đó là 3 cảm nhận tâm linh, định hướng cho từng biến cố, cụ thể là:

  • VIỆN PHỤ – ĐỨC KITO TRONG ANH EM.

  • TRẮNG TAY – NHẢY THEO NHỊP ĐIỆU CỦA CHÚA

  • BẠI LIỆT – HÃY TẠ ƠN CHÚA TRONG MỌI HOÀN CẢNH

 

1- VIỆN PHỤ – ĐỨC KITO TRONG ANH EM

Khi được bầu làm Viện phụ Phước Sơn (21-11-1970), Bác Lâm đã chọn cho mình một châm ngôn mục vụ. Theo truyền thống, nhiều cha khi lãnh chức linh mục cũng chọn cho mình một châm ngôn sống, xem châm ngôn này như định hướng lớn soi sáng cuộc đời mình. Các giám mục đều có châm ngôn mục vụ riêng và châm ngôn này được khắc ghi trong huy hiệu giám mục, như một tuyên xưng về tinh thần hay đường hướng mục vụ của mình. Viện phụ là một phẩm chức thấp hơn chức Giám mục nhưng về phẩm phục lại có đôi nét tương đồng, cụ thể, như được mang mũ, gậy. Viện phụ cũng có huy hiệu và trên huy hiệu ấy, cũng ghi châm ngôn mục vụ, như hình bên cạnh.Hỏi thêm Cha Hiền, Cha Vinh về việc này

Câu châm ngôn Bác Lâm đã chọn là: ĐỨC KITO TRONG ANH EM 

 Tiếc rằng chi tiết này được biết quá muộn màng. Có lẽ bác Khởi cũng không biết (?) nên không đưa vào cuộc phỏng vấn. Viện phụ Đoàn, trong thánh lễ an táng Bác cũng đã không nhắc lại chi tiết này, có lẽ khi đó (1970), Viện phụ Đoàn còn là một thầy nhà tập nên chưa quan tâm chuyện người lớn (?). Còn tôi chỉ biết được mãi sau này, sau khi Bác Lâm đã mất, khi nhìn lại phía sau bức ảnh chân dung chụp vào dịp kỷ niệm Ngân khánh Viện phụ (21-11-1970 – 21-11-1995)

Thiên Chúa trong người nghèo, tha nhân (ai cho bát nước lã…)

Ai là anh  em? – Dụ ngôn người Samaritano nhân h65u 

“mà an hem thuộc về Đức Kito” (1 Cr3, 23)

“Chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giesu” (2Cr, 4,5)

“Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả an hem là con cái Thiên Chúa trong Đức Giesu Kito. Quả thế, bất cứ ai trong an hem được thanh tẩy để thuộc về Đức Kito, đều mặc lấy Đức Kito” (Gl. 3, 26-27)

“Tôi cảm tạ TC của tôi mỗi lần nhớ đến anh  em. Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh  em hết thảy […] vì tôi mang anh  em trong lòng tôi” (Ph. 1, 3-7)

“chúng tôi d94 cư xử với mỗi người trong anh  em như cha với con” (1 Tx.2,11” )

“Phải chính an hem là vinh quang và là niềm vui của chúng tôi” (1Tx. 2,20)

 

2- Trắng tay: nhảy theo nhịp điệu của Chúa

  • “Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người vì Người chăm sóc an hem” 1Pr. 5,7
  • “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về lòng đất cũng trần truồng. Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi. Người muốn sao nên vậy, xin chúc tụng Danh Chúa. Mình biết đón nhận ơn lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận sao” (G 1,20; 2,10)
  • “Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con hiểu biết thánh chỉ Ngài” (Tv 118 (119), 71 // Tv đọc trong kinh trưa thường niên suốt cả 4 tuần (22 đoạn)
  • “Gióp” giai đoạn hai
  • danse: Ex (xuất hành) 32,19 // Jug (thẩm phán)11,34; 21,21 // Jud (Judith)3,7; 15,12 // Ps (Thánh vịnh) 86,7 ; 150,4 // Jer (Jeremia) 31,4,13 // Lam(lamentations) 5,15 // Lc 15,25
  • Danser:Ex 15,20 // Jug 16,25 // 1 Sa 18,6 ; 29,5 // 2 Sa 6,5,14,21 ;QO (Qohelet, livre de l’Ecclesiastique): il y a un temps pour danser // Matt 11,16; 14.6 // Marc 6,22 // Lc 7,32 // CV 3,8
  • NHịp điệu // Mouvement: CV17,28 // 1 Ch ( 1 Chroniques) 17, 19  // Ga 18, 34
  • Lạy Chúa là sức mạnh của con

Xin đàn hát mừng Ngài 

Bởi Ngài là thành lũy bảo vệ con,

Lạy Thiên Chúa , Đấng đầy lòng yêu mến

Tv 58 (59), 18

 

3- Bại liệt: Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh

  • “Anh em đừg lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, an hem cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giải bày trước mặt TC những điều an hem thỉnh nguyện”
  • “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy vì đó là điều TC muốn trong Đức Kito Giesu” (1 Tx.5, 18 , gần kết thư).

 


 

[1] (PK) Sách Gióp trong Cựu Ước được ví như một cây đại thụ trong rừng văn chương thế giới.  Đó là một tuyệt tác thuộc loại “văn chương khôn ngoan” của Kinh Thánh. Nội dung là câu chuyện về một nhân vật phi thường mang tên Gióp. Ông là người công chính, nhưng đã chịu thử thách tột độ, bị Satan hành hạ đủ cách, với phép của Thiên Chúa, từ chịu đựng bệnh phong cùi ghê tởm, đến mất mát hết tài sản và con cái, rồi bị bạn bè và người thân phản bội, xa lánh, nhạo cười…, vì dù bị Thiên Chúa và con người bỏ rơi, ông vẫn tin vào sự khôn ngoan, quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Qua đó ông chống lại quan niệm phổ biến của thời đại mình, cho rằng đau khổ là hình phạt dành cho tội lỗi mình đã phạm trong kiếp sống này…. Vì có những lúc quá đau khổ nên ông đã nguyền rủa cuộc đời mình. Cuối cùng, vì được trực tiếp gặp Thiên Chúa, nên ông khiêm tốn nhận biết mình đắc tội với Người, và đã khiêm tối rút lại những điều đã nói ra, rồi sấp mình thống hối ăn năn. Câu chuyện kết thúc rất có hậu.  Ông Gióp, tuy bị thử thách và đau khổ tột độ, nhưng vẫn kiên trì tin tưởng vào sự công chính và khôn ngoan rất nhiệm mầu của Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa ban phần thưởng bội hậu ngay ở đời này, đó là có 7 con trai, 3 con gái đẹp nhất trong xứ, và tài sản, bò bê chiên cừu nhiều gấp đôi…, và ông được thấy con cái cháu chắt đến 4 đời. ĐHY Phạm Minh Mẫn gọi đó là “Ông Gióp giai đoạn hai”.