Chép Lại Bút Tích Của Ông Vương Đình Thông Về Gia Phả
GIA PHẢ TÓM LƯỢC CỦA HỌ VƯƠNG
Họ Vương gốc quán ở Phủ Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh. Không rõ vì loạn ly hay vì hoàn cảnh nào mà một chi chạy lên ở Tri Bản, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh, một chi ở lại Thạch Hà.
Chi ở Tri Bản, Hương Khê đã có lần liên lạc về Thọ Ninh. Đến năm 1955 chi này chỉ còn một người tên là Vương Văn Nuôi 18 tuổi lập nghiệp ở Tri Bản.
Chi ở Thạch Hà có lần đã ra Thọ Ninh nhìn họ nhưng vì đã lâu đời vả lại chi này không theo đạo Công giáo cho nên không được rõ ràng. Người liên lạc đó có hứa trở về Thạch Hà để lần sau đưa gia phả ra sẽ nhận được đích xác. Nhưng từ đó khoảng năm 1916 không còn liên lạc ra Thọ Ninh và cũng không được tin tức gì nữa.
Còn chi của chúng ta, ông tổ chạy ra Đức Thọ có lẽ vì sinh kế nhập tịch làng Trường Xuân (chợ Thượng). Không rõ được mấy đời thì xuống cư ngụ ở Thọ Ninh và theo đạo Công giáo từ đời nào?
Nay bắt gốc từ chỗ rõ ràng là can Liệu đã theo đạo Công giáo, cư ngụ ở Thọ Ninh, Đức Thọ. Can Liệu sinh hạ được hai người con trai là Vương Liệu và Vương Quế tục gọi (cố câu Đào).
Vương Liệu tục gọi (cố Liệu) sinh hạ được hai người con trai: Vương Mai, Vương Hòe.
Vương Mai sinh được ba người con trai là Vương Đình Khanh di cư vào Nam định cư ở trại Châu Sơn Ban Mê Thuột; Vương Đình Đường định cư ở trại Mương Mán Phan Thiết và Vương Đình Khôi ở trại Trung Hòa BMT.
Vương Hòe chỉ có hai con gái: một lấy Trần Văn Oanh xứ Thọ Ninh nay định cư ở trại Châu Sơn BMT. Một lấy Phạm Sáu Nho ở Quát xứ Kẻ Mui huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, không di cư vào Nam được.
Con gái cố Liệu gồm có năm người:
1/ Bà cụ Thông Khang sinh được mười hai con, bốn trai và tám gái. Trong bốn con trai, có một người là Đậu Thái Đình làm linh mục tục gọi cha Đình hiện ở bắc tuyến.
2/ Bà trùm Thọ không có con đã qua đời cả.
3/ Bà trùm Sâm cũng không con đã qua đời cả.
4/ Bà Quì định cư ở Mương Mán, bà này có anh Trần Văn Huyên, Trần Đình Hy và một cháu đích tôn là Trần Quyền và một con gái, bà Đức Vạn cũng định cư ở Mương Mán.
5/ Bà câu Ninh, hai ông bà hiện định cư tại Nha Trang. Ông bà sinh được năm trai và năm gái. Trong năm con trai có một người là Nguyễn Văn Hàn đi tu dòng Phanxicô tục gọi thầy Phê rô. Người con trai đầu lòng bị Việt cộng giam giữ ở bắc tuyến còn vợ con định cư ở Thánh Mẫu Đà Lạt.
Nguyễn Văn Lý định cư ở Nha Trang.
Nguyễn Văn Cửu (trung úy) ở Đà Nẵng.
Nguyễn Văn Thập ở Sài Gòn và ba con gái di cư vào nam. Một người lấy Nguyễn Ngọc Quế, một người lấy Nguyễn Văn Thọ. Cả hai gia đình đều định cư ở Thánh Mẫu. Còn một người lấy Ngô Đình Hóa định cư ở đảo Phú Quốc.
Người con thứ hai của can Liệu là Vương Quế tục gọi (cố câu Đào và về sau cố Giáo). Cố Giáo sinh hạ được hai người con trai là cụ Vương Đình Hòe, cụ Vương Đình Trinh và hai con gái là bà trùm Chức và bà câu Báu.
Cụ Vương Đình Hòe sinh được mười hai (12) người con (bốn trai tám gái):
1/ Con đầu lòng Vương Thị Minh ở đồng trinh tại gia, qua đời năm 1951 hưởng thọ 46 tuổi.
2/ Vương Đình Hai từ trần khi mới hai tuổi.
3/ Joseph Vương Đình Thông vì là cháu đích tôn của cố Giáo cho nên năm lên 15 tuổi 1924 được cố Giáo gửi ra học tại trường sư phạm Saint Thoma d’Aquin ở Nam Định đến tháng 6 năm 1929 kết bạn với Maria Trần Thị Tam con gái ông bà Thanh cũng ở Thọ Ninh, sinh hạ được bảy con trai và hai gái.
4/ Vương Đình Ái đi tu làm linh mục địa phận Vinh hiện ở bắc tuyến.
5/ Vương Thị Ngũ lấy Trần Văn Thanh ở họ Cầu Khóng, xứ Nghĩa Yên sinh được 10 con 4 trai và 6 gái hiện mắc kẹt ở lại bắc tuyến.
6/ Vương Thị Lục lấy chắt Báu ở Thọ Ninh sinh được hai con trai là Trần Xuân Lan và Trần Văn Cảnh hiện định cư ở trại Trung Hòa BMT.
7/ Vương Thị Bảy lấy Phạm Thúc Lam ở họ Quát xứ Kẻ Mui huyện Hương Sơn đến năm 1955 đã được hai trai, ba gái hiện mắc kẹt ở lại bắc tuyến.
8/ Vương Đình Lương đi tu, mãn trường tiểu chủng viện xã Đoài được bổ làm giáo sư trường tập Xuân Phong của địa phận, sau một năm thì xuất về đi học ở Huế đậu tú tài toàn phần rồi trở về vừa gặp năm đảo chính Việt Minh 1945 làm hiệu trưởng trường trung học tư thục Đậu Quang Linh (Saint Joseph cũ) ở Nghĩa Yên, năm 1955 đã được hai trai, một gái (Vương Đình Sanh, Vương Đình Căn và Vương Thị Kim Anh). Vương Đình Lương kết bạn với Phạm Thị Lý con ông bà chánh Thảo ở Quát, Kẻ Mui Hương Sơn năm 1946.
9/ Vương Thị Cửu lên 17 tuổi vào tu tại Dòng kín Huế được hai năm vì thiếu sức khỏe trở về Thọ Ninh ở với thầy mẹ.
10/ Vương Thị Mười được hơn một tuổi thì chết.
11/ Vương Thị Linh đi tu dòng Mến Thánh Giá Phú Xuân tại Huế đã được khấn trọng thể trong dòng năm 1957 và hiện nay được bổ nhiệm làm giáo sư trường trung học tư thục Mai Khôi ở Huế.
12/ Vương Thị Tịnh lấy Trần Đăng Hy ở xứ Thanh Tân, huyện Yên Thành, Nghệ An đến năm 1955 đã được hai con trai.
Người con thứ 3 của cụ Vương Đình Hòe là Joshep Vương Đình Thông, sau khi tốt nghiệp trường sư phạm Nam Định và kết hôn cùng Maria Trần Thị Tam sinh hạ được chín người con, bảy trai hai gái thứ tự như sau:
1/ Joseph Vương Đình Lâm sinh năm 1930 theo học tại trường Saint Joseph Nghĩa Yên đến năm 1946 vào dòng Phước Sơn ở Quảng Trị học tại Đệ tử viện Phước Sơn được gần một năm thì tình hình chiến tranh Nhật-Mỹ tại Đông Dương ngày một ác liệt, do đó Cha bề trên nhà dòng phải cho các đệ tử tản cư về nguyên quán. Joseph Vương Đình Lâm về Thọ Ninh được một tháng thì được lệnh Cha bề trên gọi vào. Trên đường trở về nhà dòng đến Đồng Hới thì xảy biến cố Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương do đó chú Lâm phải đi bộ với một thầy dòng từ Đồng Hới đến tận nhà dòng Phước Sơn. Vào đây lại được học ở Đệ tử, đến năm 1953, chính quyền Việt cộng trấn áp nhà dòng, tịch thu hết tài sản. Bởi vậy nhà dòng phải tản cư vào Nam đến tạm thiết tại Thủ Đức Gia Định. Đến tháng 3 năm 1954 thầy Lâm được Cha bề trên cho xuất dương du học tại Thụy Sĩ trong hai năm rồi lại được cử sang du học tại La Mã đến mùa hè năm 1957 thầy Lâm trở lại Thụy Sĩ để chịu chức linh mục ngày 24-8-1957 tại Fribourg và làm lễ mở tay ở Ebikou, hết mùa hè lại trở sang La Mã để vào Đại học.
2/ Joseph Vương Đình Chương, sinh năm 1932 theo học tại trường Saint Joseph Nghĩa Yên đến năm 1942 vào trường tập Xuân Phong địa phận Vinh rồi vào tiểu chủng viện Xã Đoài học hết năm đệ tam. Cha bề trên cũng như các giáo sư tiểu chủng viện nhận thấy Joseph Chương có trí thông minh lại chăm chỉ, đạo đức bèn cho nhảy lớp lên đệ nhất. Sau một thời gian chú Chương ngã bệnh trở về Thọ Ninh phục dược lại gặp gia cảnh bị chính quyền Việt cộng bóc lột trên nhiều hình thức như thuế nông nghiệp rồi đến tô tức … Mặt khác vì chiến tranh ngày càng gay cấn, thuốc men hiếm hoi và đắt đỏ, chú Chương đã từ trần ngày 11 tháng 10 năm 1954.
3/ Jacobê Vương Đình Kỳ, chết khi lên năm tuổi.
4/ Phanxicô Xaviê Vương Đình Phương sinh năm 1936 theo học tại trường Đậu Quang Linh (Saint Joseph cũ Nghĩa Yên). Đến năm 1953, chính quyền Việt cộng thi hành chính sách không cho mướn nhân công, Phương phải bỏ học trở về canh tác đến tháng 5 năm 1955 di cư vào nam và đã kết bạn với Anna Nguyễn Thị Huệ con ông bà giáo Hiên ở trại Thánh Mẫu Đà Lạt tháng 12 năm 1957.
5/ Alphonsô Vương Đình Khởi sinh năm 1939 theo học ban tiểu học tại trường xứ Thọ Ninh đến năm 1950 vào dòng Phanxicô ở Vinh, theo học đệ tử nhà dòng đến năm 1953 vì tình hình chiến tranh và vì chủ trương trấn áp các tổ chức tôn giáo của Việt cộng. Nhà dòng phải tản cư lên Đô Lương, các chú đệ tử được trở về nguyên quán. Về Thọ Ninh gặp lúc gia cảnh bị chính quyền Việt cộng bóc lột nặng nề, Alphonsô Khởi không thể tiếp tục học ở trường ngoài mà phải ở nhà giúp đỡ thầy mẹ như chăn trâu, làm việc đồng ruộng,… 20-7-1954 Hiệp định Genève được ký kết, nhân dân đòi đi nam, nhất là ở Thọ Ninh phong trào đấu tranh đòi đi nam ngày càng lan rộng. Nhưng gia đình nói riêng cũng như mọi gia đình địa chủ nói chung, Việt cộng trắng trợn trấn áp và tuyên bố không cho địa chủ di cư. Thấy tình thế khó khăn gia đình bèn xếp đặt cho Alphonsô Khởi đi trốn. Trước khi đi Khởi ra Vinh trực tiếp Cha bề trên dòng Phanxicô trình bày mọi việc. Cha bề trên chập thuận cho Khởi được đi trốn. Trở về Thọ Ninh xin giấy chính quyền xã nhưng họ không cho lấy cớ là chưa đến tuổi mà thực ra là vì con địa chủ. Mặc dầu không có giấy tờ, gia đình sắp đặt cho Khởi đi, nhờ sự hướng dẫn của cụ Phúc Hải là người đã ra tận Hải Phòng trở về Thọ Ninh để đem người con gái là cô Đức đi nam. Sau khi đã hẹn ngày giờ và nơi gặp cụ Phúc Hải ở Vinh để cùng đi. Khởi trong bộ đồ nâu, đầu đội nón lá, chân đi dép cao su, mang cái xắc vải với số bạc hai mươi vạn đồng Việt minh, từ giã gia đình thân yêu ra đi bộ từ Thọ Ninh xuống Vinh theo con đường xe lửa dài 18km. Xuống nhà dòng Khởi được các Cha, các thầy săn sóc và nghỉ lại đó đến 6h sáng hôm sau ra bến xe hơi ở Vinh như cụ Phúc Hải đã căn dặn để cùng đi ra Hà Nội. Khởi lo lắng tới bến xe đúng giờ nói trên và chờ cụ Phúc Hải mãi tới 8h nhưng không thấy tăm tích cụ Phúc đâu cả? Khởi vội vàng đi tới hiệu Lan Đình là nơi cụ Phúc Hải trú ngụ để hỏi thăm tin tức. Bà Lan Đình cho biết là cụ Phúc Hải đã nghỉ đêm đó và đã đi với 14 người khác từ lúc 5h sáng. Khởi nghe nói vậy như sét đánh bên tai và đứng trước tình thế thất vọng, Khởi khóc nức nở nhưng mọi sự đã có Chúa Mẹ lo liệu. Trong chốc lát, ông Lan Đình đạp xe đạp về, thấy Khởi khóc lóc bèn hỏi, bà Lan Đình tự sự với ông về Khởi. Ông liền bảo Khởi: “Cậu cứ an tâm! Cụ Phúc Hải hiện nay còn nghỉ ở gare Quán Hành và chuẩn bị ăn cơm với mười mấy người đi với cụ ta. Cậu hãy ra đón xe đạp, người ta đi buôn Thanh Hóa nhiều lắm rồi nhờ họ đèo mất độ mấy ngàn (bạc Việt minh) thì sẽ gặp cụ Phúc”. Được lời như cởi tấm lòng, Khởi vội vàng chào ông bà Lan Đình ra đón xe đạp, gặp được chiếc xe đạp của một thanh niên, người này đèo Khởi ra tận Quán Hành và không lấy tiền. Tới đây Khởi gặp cụ Phúc Hải và số người đi với cụ. Niềm hi vọng lại chan chứa nhưng lòng vẫn đầy âu lo vì đường còn dài, e còn nhiều trở ngại. Ăn uống và nghỉ chân một lúc, mọi người lại bắt đầu cuốc bộ theo kế hoạch đi rời cách nhau. Khởi vì còn ít tuổi, được chỉ định đi trước, rồi cứ thế mà cuốc ra tận tỉnh lỵ Thanh Hóa, mọi người mới bố trí lên xe hơi đi Hà Nội rồi lần lượt xuống Hải Phòng bình an. Ở lại Hải Phòng, Khởi được gặp bác Đoài và một số bà con người làng trốn ra trước, sau thời gian gần một tháng, Khởi được đáp phi cơ vào Nam tháng 12 năm 1954 vào học ở nhà dòng Nha Trang, sau dời vào Thủ Đức Khởi được đi du học Pháp ngày 27-8-1961 và mặc áo dòng ngày 28-8-1961.
6/ Thêrêxa Vương Thị Tuyết sinh năm 1941 theo học tại trường xứ Thọ Ninh đến lớp III vì hoàn cảnh gia đình địa chủ, Tuyết không được theo học, trở về giúp đỡ thầy mẹ, làm mọi việc trong nhà như bế em, gánh nước, nấu ăn, đi hái rau… Có khi ra đồng làm việc nhẹ như chăn trâu, đập gộc mía, có khi lại đi bắt tôm, bắt cá góp vào kinh tế gia đình. Đến tháng 5 năm 1955 được di cư vào Nam.
7/ Antôn Vương Đình Sum sinh năm 1943 và chết khi mới lên một tuổi.
8/ Augustin Vương Đình Chữ sinh năm 1945 ở với thầy mẹ đến năm lên 7 tuổi thì vào giúp đỡ ông bà (cố cụ Vương Đình Hòe), cứ mỗi buổi chiều đi chăn dê với ông ở bờ cây vườn nhà xứ hoặc bờ cây vườn bà Phú Cương. Từ thưở bình sinh, Chữ mắc cái bướu ở cổ, bướu ngày càng lớn nhưng vì hoàn cảnh kháng chiến, thuốc men khan hiếm, bác sĩ không có mãi đến tháng 5 năm 1955 di cư vào Nam tới Huế vào bệnh viện được bác sĩ săn sóc và mổ xẻ cục bướu, Chữ trở thành mạnh khỏe và được vào Đệ tử viện dòng Chúa Cứu Thế tại Vũng Tàu ngày 1-9-1957.
9/ Agnes Vương Thị Ngọc, sinh năm 1947, lúc lên 7 tuổi, vì muốn tránh nền giáo dục vô thần của Việt cộng, thầy bố trí dạy cho Chữ và Ngọc ở nhà, cả hai vừa biết đọc, biết viết và đồng thời được thầy già Bằng giúp xứ Thọ Ninh dạy cho cả hai anh em được xưng tội rước lễ lần đầu tại nhà thờ Thọ Ninh. Sau đó một thời gian ngắn cả gia đình được di cư vào Nam.
Cụ Vương Đình Trinh, tục gọi cụ Thông Dương, là con út của cố Giáo và cũng là con trai thứ hai.
Cụ Trinh sinh hạ được mười người con, năm trai năm gái thứ tự như sau:
1/ Thérèse Vương Thi Châu chết khi lên một tuổi.
2/ Antông Vương Đình Dương sinh năm 1920 theo học đến lớp nhất ban Tiểu học rồi về giúp đỡ thầy mẹ, chủ trương canh tác, lên 21 tuổi kết bạn với cô Báu con ông bà cựu Tường ở Tiệp Võ. Đến năm 1955 đã có bốn con (hai trai và hai gái) và bị Việt Minh kìm giữ không cho di cư vào Nam.
3/ Rosa Vương Thị Danh sinh năm 1922 lớn lên kết bạn với Đậu Quang Uyên sinh hạ được hai con gái và từ trần năm 1944. Nay còn lại một con gái là Đậu Thị Nhàn di cư vào Nam với bố là Đậu Quang Uyên và định cư tại trại Châu Sơn BMT.
4/ Maria Vương Thị Dong, sinh năm 1924 đến năm 1941 vào dòng kín ở Huế được mặc áo dòng và khấn tạm năm 1946. Đến năm 1958 được khấn trọng thể trong dòng.
5/ Maria Vương Thị Quý sinh năm 1926 lớn lên kết bạn với Trần Cầu Mai đến năm 1955 đã được bốn con 1 trai 3 gái.
6/ Antông Vương Đình Bích sinh năm 1928 theo học tại trường Saint Joseph Nghĩa Yên rồi vào trường tập Xuân Phong phủ Diên Châu, mãn trường tập được vào tiểu chủng viện Xã Đoài. Vào đây chú Bích bị yếu và mắc chứng lở, mỗi lần về Thọ Ninh điều trị khỏi, trở ra Xã Đoài lại bị lở lại. Đến năm 1940 vào dòng Phước Sơn học tại Đệ tử viện nhà dòng đến năm 1945 vì tình thế chiến tranh Nhật Mỹ tản cư về Thọ Ninh được một tháng rồi cùng trở về dòng tháng 3 năm 1945 với cháu Joseph Vương Đình Lâm. Tiếp tục học tại nhà dòng đến năm 1952 tản cư vào Nam, chú Bích được chia về dòng Phước Lý ở Xoài Minh và được Cha bề trên cho xuất dương du học tại Fribourg Thụy Sĩ và chịu chức linh mục tại đây ngày 6 tháng 1 năm 1959 rồi vào đại học.
7/ Antông Vương Đình Tài sinh năm 1930 theo học tại trường Saint Joseph Nghĩa Yên đến năm 1942 vào dòng Chúa Cứu Thế ở Huế, hằng năm đến tháng hè được về nghỉ ở Thọ Ninh. Đến năm 1947 vì tình hình chiến tranh ngày một ác liệt, đường giao thông bị bế tắc, mất liên lạc với gia đình. Chú Tài vẫn bền độ ở trong dòng tiếp tục học hành đến năm …. Chú Tài bị đau phải nghỉ học trong hai năm. Ơn Chúa Mẹ thương chú được các soeurs Saint Paul săn sóc điều trị cẩn thận cho nên sức khỏe trở lại bình thường và tiếp tục đời sống tu luyện cũng như học hành trong dòng và đã được thụ phong linh mục tại nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn ngày 8 tháng 9 năm 1959.
8/ Maria Vương Thị Hóa sinh năm 1932 theo học tại trường Saint Joseph lớn lên kết bạn với Nguyễn Phán con ông bà Nguyễn Thông ở Cẩn Kỵ xứ Đồng Cường đến năm 1955 đã được hai con.
Vì dòng dõi địa chủ cho nên bị Việt minh kìm hãm không cho di cư.
9/ Phanxicô Xaviê Vương Đình Cam sinh năm 1934. Theo học tại trường Saint Joseph đến năm 1953 Việt minh thi hành chính sách không cho mướn nhân công các gia đình địa chủ nói chung. Chú Cam phải bỏ học về nhà giúp việc đồng áng. Đến năm 1954 Việt minh tịch thâu hết tài sản. Ông cụ thân sinh bị Việt minh đấu tố và bỏ tù. Ở nhà còn bà cụ, chú Cam và em ruột là Vương Đình Đàn. Chú Cam có biệt tài trong nghề làm cá. Sau khi bị Việt minh bóc lột hết của cải, ban ngày chú đi cào hến hoặc đánh cá ở đồng ruộng, ban đêm thì đi soi cá ở bờ sông để nuôi mẹ và em Đàn. Không chịu đựng nổi chế độ hà khắc và vô nhân đạo của Việt minh nhất là đối với giai cấp địa chủ, chú Cam bèn xin phép mẹ và tự sự với em Đàn để trốn thoát vào Nam. Ra đi vào khoảng đầu tháng 12 năm 1954 chú phải tàng hình mặc bộ đồ rách, mang lưới, cầm gậy giả vờ ra đồng đánh cá như thường ngày rồi cuốc bộ theo đường xe lửa ra Vinh tìm thuyền ông bà Đào Danh Trang tục gọi là ông bà quản Trang, chánh quán tỉnh Hải Dương vào buôn bán ở Hà Tĩnh đã lâu. Vì tình thế chiến tranh ông bà quản tản cư về Thọ Ninh lập nghiệp. Được biết Hiệp định đình chiến Genève đã ký kết, ông bà lấy cớ hồi cư về Bắc xin phép chính quyền địa phương mãi họ mới cho, đành bỏ lại ruộng nương đã tạo ở Thọ Ninh.
Vì đã được thương lượng và xếp đặt trước, chú Cam ra Vinh xuống thuyền ông bà quản đi từ đó ra tận Hải Phòng rồi vào Nam đến tháng ba năm 1955, chú Cam kết bạn với Philomène Đào Thị Tịnh con gái thứ hai của ông bà quản Trang và đã chịu phép hôn phối tại nhà tư 40 Fau Caul Saigon ngày 6 tháng 3 năm 1955. Sau đó xuống định cư tại trại Cầu Sáng quận Đức Hòa với ông bà quản đến tháng 12 năm 1955 chú Cam ra trại Mương Mán Phan Thiết dạy học một thời gian rồi đến tháng 3 năm 1956 lên định cư tại trại Thánh Mẫu Đà Lạt.
10/ Joan Baotixita Vương Đình Đàn sinh năm 1936 theo học đến lớp 3, cũng vì hoàn cảnh con địa chủ bị thất học về giúp việc đồng áng và đành ở lại quê nhà để nuôi mẹ già.
Nay nói đến con gái của cố Giáo.
1/ Bà Vương Thị Chức lấy ông Trần Văn Chức ở Thọ Ninh sinh hạ được một con gái thì bà từ trần. Ông Chức ở vậy nuôi con, sau ra làm trùm họ giúp việc đạo trong họ. Người con gái một của ông trùm Chức lớn lên kết bạn với anh Trần Đức Uy con ông bà cựu Ân ở Thọ Ninh. Ông Trần Đức Uy cũng ra giúp việc làng, làm lý trưởng Thọ Ninh một thời gian rồi xin từ dịch. Ông bà Trần Đức Uy sinh hạ được sáu người con, bốn trai hai gái. Người con trai cả là Phêrô Trần Đức Sâm theo học tại trường Saint Joseph Nghĩa Yên đến năm lên 13 tuổi được Cha Vương Đình Ái nhận làm con và giới thiệu cho đi học trường tập ở Xuân Phong rồi vào tiểu chủng viện Xã Đoài. Mãn trường tiểu chủng viện thầy Sâm được sai đi giúp xứ Nghĩa Yên. Sau ra giúp xứ Xã Đoài đến năm 1955 di cư vào Nam được gọi vào đại chủng viện Lê Bảo Tịnh Sài Gòn học và đã được thụ phong linh mục ngày 12 tháng 7 năm 1961 tại nhà thờ thị xã BMT. Cha Sâm nhập địa phận Kontum cho nên được bề trên địa phận sai đi mở nước Chúa tại dinh điền ở miền Ban Mê Thuột. Cố trùm Chức cũng như gia đình ông bà cụ Uy lúc di cư vào định cư ở trại Mương Mán Phan Thiết đến năm 1957 lên định cư tại trại Châu Sơn BMT.
2/ Bà Vương Thị Báu là con gái thứ hai của cố Giáo, kết bạn với ông Trần V. Ninh con cố cụ Hường ở Thọ Ninh. Ông Trần V. Ninh sau gọi là ông câu Báu ra làm câu họ giúp việc đạo trong họ Thọ Ninh. Ông bà sinh hạ được sáu người con, hai trai và bốn gái:
- Người con gái đầu lòng lấy ông Nguyên Minh con ông bà câu Thành ở Thọ Ninh, ông bà Minh sinh hạ được 5 con trai và 3 con gái. Di cư vào Nam ở Mương Mán rồi đến năm 1959 lên định cư trại Thánh Mẫu Đà Lạt.
- Người con gái thứ hai con ông bà câu Báu lấy ông Nguyễn Ái con ông bà cụ Ái ở Nghĩa Yên, sinh hạ được 4 trai 4 gái di cư vào Nam ở Mương Mán rồi đến năm 1960 lên trại Thánh Mẫu Đà Lạt.
- Người con gái thứ ba kết bạn với ông Nguyễn Lê con cố Võ ở Thọ Ninh. Di cư vào Nam ở Mương Mán đến năm 1957 lên ở trại Trung Hòa BMT. Bà Lê đã từ trần tại Trung Hòa năm 1959 để lại ba con 1 trai 2 gái.
- Người con gái thứ tư kết bạn với ông Hoàng Hưu con cố Hưu ở Thọ Ninh. Di cư vào ở Mương Mán rồi đến năm 1957 lên định cư ở trại Trung Hòa BMT.
- Người con trai đầu của ông bà câu Báu là Trần Văn Báu kết bạn với Maria Đậu Thị Ngũ Bình con ông Đậu Thái Bình ở Thọ Ninh. Di cư vào Nam, định cư ở Mương Mán. Chú Báu chết nạn xe hơi năm 1960 để lại ba con hai trai và một gái.
- Người con trai thứ hai của ông bà câu Báu là Nguyễn Văn Mịch. Di cư vào ở Mương Mán. Chú Mịch kết bạn với Anna Tam Khang con ông Khang Chức ở Thọ Ninh.
Phần phụ giải
a/ Cố câu Đào về sau gọi là cố Giáo (tục danh là Vương Quế) là con trai thứ hai của can Liệu. Sở dĩ có tên câu Đào là vì cố ra giúp việc đạo (làm câu họ Thọ Ninh). Theo chế độ của thời ấy thì người cư không có thể ra làm việc làng mà chỉ có thể giúp việc đạo như trùm câu họ hoặc Trương, Thông, Ký, Cán là những địa vị chức sắc trong xứ đạo.
Về sau gọi là cố Giáo vì người con trai đầu của cố là cụ Vương Đình Hòe được bổ làm giáo sư (hương sư ở trường Thọ Ninh) do đó mà người ta gọi tên cố Giáo.
Cố Giáo xuất thân bởi một gia đình nông dân khá giả được theo học Hán tự đến trình độ đọc và viết những giấy tờ thông thường như khế tự sổ sách v.v…. Lớn lên kết bạn với con gái họ Lê cũng chánh quán làng Trường Xuân mà ngụ cư ở làng Yên Phú, sinh hạ được hai con trai và hai con gái như đã kể ở trang 4 thì bà mất. Về sau cố Giáo có cưới bà kế là bà chắt Trường quả phụ ở làng Bùi Xá thuộc xứ Nghĩa Yên sinh hạ được một con gái đặt tên là con O lên sáu tuổi thì chết. Còn bà thì tạ thế năm 1930. Cố Giáo nói được là một chiến sĩ nông nghiệp, với một số ruộng đất do can Liệu chia cho. Với sức khỏe dồi dào cũng như đức tính cần cù, can đảm và tháo vát, cố đã làm nên giàu, tạo tành ruộng nương mà đa số là ruộng đất tốt ở làng Trường Xuân và là ruộng đất tốt hạng nhất ở làng Thịnh Quả và làng Yên Mỹ cũng tương liên với địa phận làng và đồng ruộng Thọ Ninh.
Lúc sinh thời trong những lúc nhàn rỗi, cố chơi gà chọi, bồ câu gáy, đi săn và có làm một số thuốc viên để cho con nhà nghèo. Nhờ vậy mà cố đã rửa tội được nhiều trẻ con sơ sinh của những gia đình ngoại giáo ở làng Trường Xuân. Cố Giáo tạ thế năm 1932 hưởng thọ 93 tuổi.
b/ Cụ Vương Đình Hòe con trai đầu của cố Giáo, xuất thân một gia đình giàu có, cụ theo học Hán tự, theo khoa cử thời đó. Đến năm 1918 bãi bỏ khoa cử, cụ được chuyển vào lớp sư phạm mở tại phủ Diên Châu Nghệ An. Lớp này chuyên dạy chữ Quốc ngữ, toán pháp, các môn thường thức và một ít tiếng Pháp. Tốt nghiệp ở trường này cụ được bổ nhiệm làm giáo sư (hương sư trường Thọ Ninh). Sau ba năm chế độ hương sư lại bãi bỏ để lập ra tổng sư (trường mỗi tổng). Cụ rút lui về đọc sách, ngâm thơ, dạy Hán tự cho con cháu đồng thời nghiên cứu sách thuốc với chủ trương cứu cấp con cháu và bà con thân quyến. Đến năm 1927 cụ được cử làm Trương xứ trong hàng chức sắc hàng xứ. Năm 1928 được cử vào ban kinh tài làm quỹ cho tổ chức kiến thiết Thánh đường xứ Thọ Ninh. Đến năm 1950 cụ được cử ra làm chủ tịch Liên đoàn Công giáo xứ Thọ Ninh. Năm 1952 chính quyền Việt cộng trấn áp và giải tán Liên đoàn Công giáo. Năm 1953 Việt cộng liệt vào hàng ngũ địa chủ bị cô lập với tất cả mọi tầng lớp mặc dầu là cha con hay họ hàng. Đầu năm 1954 bị Việt cộng bắt giải vào chợ Giấy huyện Can Lộc Hà Tĩnh cách Thọ Ninh chín cây số. Ở đây một thời gian ngắn rồi Việt cộng lại giải lên Đô Lương huyện Anh Sơn Nghệ An. Bất chấp tuổi già họ bắt đi bộ từ chợ Giấy đến Đô Lương cách xa gần một trăm cây số. Bị giam giữ ở Đô Lương gần hai tháng Việt cộng lại giải về Thọ Ninh giam giữ trong một gia đình nông dân (nhà bà Thoái) gần một tháng rồi đưa ra nhân dân đấu tố tại nhà trường Thọ Ninh. Sau đó được trở về gia đình với hình thức quản chế và cô lập gắt gao, còn gia sản bị tịch biên. Đến năm 1956 Việt cộng phát động quần chúng cải cách ruộng đất, cụ lại bị bắt đem đi giam giữ trong một gia đình nông dân ở làng Thọ Tường (nhà ông Lưu Phong là người có lĩnh canh ruộng đất của cụ) trong hai tháng rồi đưa về Thọ Ninh cho nhân dân đấu tố ở đền Thọ Tường. Mặc dầu tuổi già sức yếu nhưng đầy chí khí quật cường, Việt cộng cho nhân dân đấu tố hai ngày hai đêm. Ban ngày chúng bắt quỳ trên một mô đất giữa nắng còn nhân dân thì làm rạp che đứng mà đấu. Có khi cụ liệt nhược quá mà ngã gục ra rồi họ lại đỡ dậy mà đấu. Nhưng cụ không nhận tất cả những lời vu khống mà Việt cộng đưa ra để buộc tội. Cuối cùng chúng tuyên bố tịch thâu hết tài sản và cho ở căn nhà bếp của người con là Vương Đình Thông. Hai ông bà già cả lại yếu hèn với người con gái là Vương Thị Cửu sinh sống trong căn nhà bếp nhỏ hẹp và sinh kế chỉ còn nhờ vào sự chăn nuôi mấy con gà rồi tán thuốc, viên thuốc cho con là Vương Thị Cửu chạy chợ này qua chợ khác mà sinh sống. (Quảng phát động quần chúng cải cách ruộng đất của Việt cộng do anh Ngô Khoa tục gọi Khoa Đính kể lại tường tận sau khi anh vượt tuyến đi từ Thọ Ninh qua đất Lào mà vào Nam năm 1959).
c/ Cụ Vương Đình Trinh thường gọi là cụ Thông Dương là con trai thứ hai và cũng là con út cố Giáo. Sinh trưởng trong gia đình giàu có, cụ theo học Hán tự đến năm 16 tuổi, cụ được gửi sang học Quốc ngữ và Pháp tự ở trường phủ Đức Thọ, ở trọ tại nhà cố trùm Thọ ở Nghĩa Yên cách trường Đức Thọ một cây số. Bà trùm Thọ là con gái cố Liệu. Theo học được ba năm, một phần vì đã lớn tuổi, đàng khác cụ thích thú điền viên nên rút lui về kết bạn với bà Hồ Thị Chín là con gái của cố trùm Quyền ở làng Cầu Khóng xứ Nghĩa Yên. Cụ săn sóc, lãnh đạo canh tác tham gia ít nhiều việc đồng áng. Lúc nhàn rỗi cụ chơi gà chọi, đánh vạc, đánh cá… Cụ thích nhất thú kéo vó làm cá. Có khi mùa đông lạnh lẽo giá rét, trong bộ đồ nâu thô sơ cụ đi cách xa ba bốn cây số đứng kéo vó thâu ngày suốt đêm mới trở về. Đến năm 1927 cụ được cử ra làm Thông xứ trong hàng chức sắc xứ Thọ Ninh. Đến năm 1942 được cử vào ban kinh tài làm quỹ cho tổ chức kiến thiết thánh đường xứ Thọ Ninh. Năm 1946 cụ được cử ra làm chủ tịch Liên đoàn Công giáo xứ Thọ Ninh. Cụ Trinh bản chất hiền lành, đạo đức lại khéo chân tay. Những lúc rỗi rãi cụ đan lưới, đan vó hoặc đan rổ rá, thúng mủng để dùng trong nhà.
Đến năm 1953 Việt cộng liệt vào địa chủ bị cô lập. Ngày 12 tháng 2 năm 1954 cụ Trinh bị Việt cộng bắt giải vào chợ Giấy giam giữ tại đây chừng hai tháng rồi lại giải về Thọ Ninh ở trong một gia đình nông dân (ông Cửu Dung). Sau một thời gian ngắn Việt cộng đưa cụ Trinh ra đền Thọ Tường đấu tố suốt hai đêm. Cuối cùng họ tuyên án hai mươi năm tù và tịch thu toàn bộ gia sản. Vào ở tù tại trại Đúng ở miền rừng huyện Hương Khê Hà Tĩnh được ba tháng thì cụ ngã bệnh. Việt cộng giải về trại tù chợ Giấy huyện Can Lộc Hà Tĩnh được chừng một tháng thì cụ tạ thế và chôn cất tại đây. Còn bà và con cái phải xuống ở căn nhà bếp. Đến năm 1956 phong trào phát động quần chúng cải cách ruộng đất của Việt cộng, mẹ con bà cụ Trinh phải sang ở nhà người con nuôi là cháu Tư cũng ở gần đó. Bà cụ và con cái đã xin phép cất mộ đưa thi hài ông cụ ở chợ Giấy về Thọ Ninh vào khoảng tháng 5 năm 1956.
Người con trai cả của cụ Trinh là Antông Vương Đình Dương như đã kể ở trang 14. Năm 1954 Việt Minh đã bỏ tù cụ Trinh rồi ra lệnh bắt con Vương Đình Dương đi bỏ tù ở một địa điểm khác. Ở tù được gần sáu tháng thì chú Dương được trả tự do. Nhưng vì thời gian tại tù, chú bị ngược đãi, bỏ đói khát, cực khổ trăm đàng cho nên khi về chú bị sưng, ốm yếu mất sức không làm được việc nặng, mặc dầu trước kia là người mạnh khỏe và đã trải qua bao nhiêu năm lao động.
d/ Ô. Joseph Vương Đình Thông sinh trưởng dưới cánh tay cha mẹ giàu có và là cháu đích tôn của cố Giáo, được cố chiều chuộng rất nhiều. Năm lên mười tuổi cố Giáo đem vào ở với cố. Đến tuổi đi học, ông Thông theo học tại trường xứ Thọ Ninh. Trong những tháng nghỉ hè lại học chữ Hán với cụ thân sinh là cụ Vương Đình Hòe. Lên mười hai tuổi cố Giáo gửi qua học trường tiểu học Phủ Đức Thọ, ở trọ tại nhà cố trùm Thọ được hai năm cố Giáo lại cho đi học trường sư phạm Saint Thomas d’Aguin ở Nam Định Bắc Việt. Trường nầy do tám địa phận (bảy địa phận đàng ngoài và địa phận Vinh) thành lập. Đến năm 1929 tốt nghiệp trường sư phạm được Đức Giám mục Eloy địa phận Vinh bổ nhiệm đi dạy học trường xứ Mỹ Dụ Nghệ An. Tháng 9 năm 1930 đổi về dạy trường xứ Thọ Ninh. Năm 1934 đổi đi dạy trường xứ Kẻ Gai Nghệ An. Năm 1936 đổi đi dạy trường xứ Thọ Hoàng huyện Hương Khê Hà Tĩnh. Đến năm 1938 về dạy trường Saint Joseph Nghĩa Yên cho đến năm 1951. Thấy chương trình giáo dục của chế độ duy vật vô thần bèn xin rút lui về săn sóc và tham gia ít nhiều công việc đồng áng. Lúc sinh thời ông Thông thích chọi bồ câu gáy. Có khi ông thích mà chịu khó đi đánh chim câu từ làng nầy qua làng khác vào tận Can Lộc cách xa Thọ Ninh mười hai cây số, có khi đi lên huyện Hương Sơn cách xa hai mươi bốn cây số. Trong thời gian dạy học ông giao du với các bạn giáo sư trong thú chơi tổ tôm hoặc cờ tướng.
Năm 1946 ông được cử làm Phó Chủ tịch Liên đoàn Công giáo hạt Nghĩa Yên. Năm 1948 đắc cử vào ban tuyên truyền kháng chiến huyện Đức Thọ. Vì tính tình giản dị, bình dân, ăn nói vui vẻ lại lưu loát lợi khẩu, đến đâu cũng được dân chúng hoan nghênh và tiếp đãi nồng hậu.
Lúc bình thời ông Thông giao du với tất cả mọi tầng lớp cho đến cả những thành phần vô sản. Do đó mà ông được cảm tình với nhân dân cho nên năm 1953 khi cán bộ Việt cộng hướng dẫn bình nghị giai cấp, ông được liệt vào hạng phú nông cho đến năm 1954 chuẩn bị phát động quần chúng mới bị nhắc lên địa chủ. Trong thời gian phát động quần chúng Việt minh bắt ông đi học tập tại nhà bà Thanh Tích ba ngày ở Thọ Ninh rồi được trả tự do. Đến tháng 5 năm 1955 cả gia đình được di cư vào Nam.