Lm Vương Đình Khởi Gửi Thư Cho Ông Nguyễn Văn Kính Về Gia Phả Họ Ngoại
Thư gửi Ông NGUYỄN VĂN KÍNH
Đàlạt, ngày 08-12-2011
Kính chào Bác Kính thân mến,
Tôi là LM Phi Khanh Vương Đình Khởi, Dòng Phanxicô, đang ở tu viện Phanxicô Du Sinh, Đàlạt, là cháu ngoại Bà Thanh và chắt ngoại của Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ, xin trân trọng kính chào Bác NGUYỄN VĂN KÍNH là chắt nội của Cụ Tằng Tổ và là bậc anh của tôi.
Cách đây ba ngày, Nguyễn Ngọc Lam, con trai cậu Nguyễn Ngọc Quế của tôi ở Thánh Mẫu, Đàlạt, tặng tôi một quyển TỘC PHẢ NGUYỄN VỊ, Tứ Đại Đồng Đường. Tôi đã đọc rất chăm chú, ít nhất hai lần toàn bộ, và nhiều đoạn thì đọc đi đọc lại nhiều lần. Tôi rất thích thú vì tìm được nhiều thông tin mới về nguồn cội của mình, và ngưỡng mộ công lao của người lập Tộc Phả. Tôi đặc biệt ngưỡng mộ những tài năng đa dạng của Bác là một văn sĩ, một thi sĩ và cả một nhạc sĩ nữa.
Tôi rất tâm đắc với nội dung : ”Gia Huấn Của Cha Ông” (tr. 25), đặc biệt với chân lý mang tính chất đạo lý của dân tộc Việt Nam ta: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Tình bà con, họ hàng trong một gia tộc quả thật là một giá trị thánh thiêng, bởi lẽ, như Thánh Phaolô nói với chúng ta, “Thiên Chúa Cha là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3, 14-15): tình cảm gia tộc phản ánh Tình Yêu thánh thiện giữa Chúa Cha và Chúa Con trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi vượt trên tầm hiểu biết của trí tuệ loài người.
Tôi cũng khâm phục tinh thần trung thực của Bác: một cách thanh thản, Bác đã nêu lên cả ánh sáng lẫn bóng tối trong lịch sử Họ Tộc ta. Việc làm của Bác nhắc tôi nhớ lại một câu nói của các Đức Giám Mục Việt Nam trong Thư Chung 1980: “ Lịch sử luôn pha lẫn ánh sáng và bóng tối, cũng như đời sống của con cái Chúa luôn có cả ân sủng và tội lỗi”. Biện phân được ánh sáng và bóng tối, là rút ra được những bài học quý giá cho chúng ta trong hiện tại và tương lai. Chính vì thế mà Đức Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII đã nói trong diễn văn khai mạc Công Đồng Vaticanô II (1962) rằng: “Lịch sử là thầy dạy cách sống”.
Tôi phải cám ơn Bác rất nhiều và hy vọng ngày nào đó mà tôi có dịp lên Banmêthuột, tôi sẽ rất hân hạnh được gặp Bác để trao đổi thêm về quyển TỘC PHẢ NGUYỄN VỊ. Hôm nay, qua lá thư điện tử đầu tiên này, tôi xin phép góp ý điều chỉnh vài chi tiết và nêu lên vài đề nghị.
I.- Góp ý điều chỉnh: Tại trang 76-77:
1) Về tên gọi chính thức của Ông Bà Thanh, tức Ông Bà Ngoại tôi:
Theo Bà Trần Thị Kim Chi, con gái của Ông Trần Đình Sâm (trong Tộc Phả mang ký kiệu VA2.5) đang sống tại Mỹ, thì trong giấy chứng nhận Rửa Tội của Ông Sâm có ghi tên cha là TRẦN ĐÌNH VỸ và tên mẹ là NGUYỄN THỊ LUÂN.
Có một vấn đề cần làm rõ: Theo Tộc Phả, trang 80-81, tên gọi Nguyễn Thị Luân được gán cho vợ của Ông Nguyễn Ái. Bản thân tôi tạm thời tin vào giấy chứng nhận Rửa Tội của Ông Sâm cho đến khi ai đó chứng minh ngược lại một cách thuyết phục . Xin Bác vui lòng soi sáng thêm, nhất là tìm hiểu thêm.
2) Về thứ tự 7 người con (bốn gái ba trai) của Ông Bà Thanh VA2: Xin vui lòng điều chỉnh lại như sau:
VA2.1: Trần Thị Bá + Trần Đức Phương (vì bà Bá = Bà Hàn Phương là con đầu của Ông Bà Thanh), có 8 người con (7 trai 1 gái) với tên và thứ tự: Trần Đức Bá, Trần Đức Đào, Trần Thị Oanh, Trần Đức Đông, Trần Đức Đoài, Trần Đức Quý, Trần Đức Nam, Trần Đức Châu.
VA2.2: Trần Dực (=Ông Hương Thanh) + Mạnh Thị Mân, có 7 người con (6 trai 1 gái): Trần Đình Minh, Trần Đình Thành, Trần Thị Huệ, Trần Đình Hiên, Trần Đình Lộc, Trần Đình Nhung, Trần Đình Thục.
VA2.3: Trần Thị Tam + Vương Đình Thông, có 9 người con (7 trai 2 gái): Vương Đình Lâm (LM Viện Phụ Dòng Phước Sơn), Vương Đình Chương (chết lúc còn là Chủng sinh), Vương Đình Kỳ, Vương Đình Phương, Vương Đình Khởi (LM Dòng Phanxicô), Vương Thị Tuyết, Vương Đình Sum, Vương Đình Chữ, Vương Thị Ngọc.
VA2.4: Trần Thị Tứ + Nguyễn Đức, có 4 người con (2 trai 2 gái): Trần Đình Bích, Trần Thị Lài, Trần Đình Anh, Trần Thị Dung.
VA2.5: Trần Thị Ngụ + Nho Thu, không có con cái.
VA2.6: Trần Đình Sâm + Hồ Thị Lục, có 7 người con (4 trai 3 gái): Trần Đình Tuấn, Trần Đình Phiệt, Trần Thị Hoa, Trần Thị Kim Chi, Trần Đình Dũng, Trần Thị Diễm Chi, Trần Đình Hải, tất cả đang sống ở Mỹ.
VA7: Trần Đình Thảo (chết lúc còn độc thân).
Xin dựa vào các thông tin trên đây để điều chỉnh lại V A2 tại trang 35.
Nếu Bác Kính muốn có thêm thông tin về các thế hệ tiếp theo trong các hậu duệ của Ông Bà Thanh, thì xin liên hệ với nhà báo Vương Đình Chữ (email: auguschu@yahoo.com). Chú Chữ có thể sưu tầm giùm.
II.- Đề nghị
Xuất phát từ chân lý mang tính chất đạo lý ”Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, tôi xin đề nghị: Bác và Quý Vị có tiếng nói quyết định trong Họ Tộc Nguyễn Vị không nên “chỉ hạn hẹp trong tộc họ đời Tằng Tổ Nguyễn Ngọc Mỹ mà thôi” (x. Trang 19), nhưng nên mở rộng tầm nhìn và mở rộng tấm lòng để ghi nhớ hết tất cả các đời Tằng Tổ khác là những người Em của Tằng Tổ Nguyễn Ngọc Mỹ, như được nhắc thoáng qua tại trang 30-31. Nếu chúng ta đã nhìn nhận Cụ NGUYỄN VỊ là Cao Tổ, thì vì yêu mến Cụ Cao Tổ, chúng ta cũng phải nhìn nhận quan hệ họ hàng giữa chúng ta, là hậu duệ của Tằng Tổ Nguyễn Ngọc Mỹ, với chính 4 Tằng Tổ kia và với hậu duệ của các ngài. Cụ thể, nên đón nhận cách trân trọng và sử dụng với thiện cảm “cuốn vở chép tay của Nguyễn Trọng Thái, con thứ 5 của Nguyễn Ngọc Minh..., chép về các chi, cánh, cháu ...của Nguyễn Ngọc Lộc” (x. trang 18-19). Nếu Bác Kính có bản photocopy của cuốn vở này, xin vui lòng gửi cho tôi một bản sao. Tôi có linh cảm: đây là một tư liệu rất quý, cần khai thác tối đa. Nếu được, xin cho tôi biết địa chỉ email hoặc địa chỉ bưu điện của Nguyễn Trọng Thái. Tôi còn nhớ: thân mẫu tôi là Bà Cụ Thông (=Trần Thị Tam) lúc còn sống hay kể cho tôi nghe về hai Cha Bá và Phúc là hai LM khả kính, là hai quý tử của Ông Bà Cụ Việt (Bà Cụ Việt là em gái của Cố Thông Mỹ nhà ta).
Mở rộng tầm nhìn như thế mới tương xứng với ý nghĩa của “Tộc Phả”, chứ không phải chỉ là “Gia Phả” mà thôi (x. tr. 7).
Tôi đang lập danh sách các LM và tu sĩ, nữ tu hậu duệ của Cụ Cao Tổ NGUYỄN VỊ. Bác sẽ thấy: không ít đâu! Và lúc đó tôi sẽ đề nghị Bác viết lại nửa trang đầu trong “Lời Ngỏ” của Tộc Phả (tr. 3).
Ngoài ra, tại trang 18 của Tộc Phả, Bác có đề cập tới Nguồn Gốc Quê Quán của Tộc Họ NGUYỄN VỊ là Họ Thượng (chợ Thượng hiện nay)…, và Bác nêu câu hỏi: Cao Tổ Nguyễn Vị dời cư về Cầu Khóng lúc nào, vì lý do nào…? Đây là một vấn đề lịch sử vừa phức tạp,vừa lý thú mà chúng ta nên nghiên cứu. Cao Tổ Vương Tiên Công của Họ Tộc Vương Đình chúng tôi cũng đã định cự tại Kẻ Thượng và chính ngài hoặc con cháu của ngài đã dời cư xuống Thọ Ninh (xưa gọi là Thọ Kỳ). Tôi có viết một lá thư cho bà con trong Họ Tộc Vương Đình, trong đó tôi đề cập khá nhiều về lịch sử dài hơn 3 thế kỷ của Kẻ Thượng-Thọ Kỳ-Thọ Ninh. Trong tinh thần chia sẻ huynh đệ, tôi gửi tới Bác để tham khảo, vì trong quá khứ, các xóm có đạo tại Nghĩa Yên, Cầu Khóng, Bùi Xá, Kẻ Tùng…đều là những giáo họ của Thọ Kỳ. Nghĩa Yên, tuy là sở Hạt của các thừa sai Pháp sau 1846 (Năm đánh dấu sự tách biệt Địa phận Nam Đàng Ngoài (=Vinh) ra khỏi Địa phận Tây Đàng Ngoài (=Hà Nội), thì vẫn là một giáo họ trực thuộc Thọ Kỳ, cho đến 1943 mới trở thành giáo xứ biệt lập. Tôi phỏng đoán rằng Cao Tổ NGUYỄN VỊ đã dời cư từ Kẻ Thượng sang Cầu Khóng vào một thời với Tổ Tiên họ Vương Đình chúng tôi, cụ thể là vào năm 1861 với dụ “Phân Sáp” của Vua Tự Đức. Mời Bác đọc cho biết để nghiên cứu thêm. Tôi cũng muốn Bác Nguyễn Trường Xuân đọc lá thư tôi viết cho Bác Kính và lá thư ngỏ tôi đã viết cho bà con họ Vương Đình. Xin Bác làm ơn chuyển giùm.
Chúng ta có thể trao đổi email với nhau trong tình bà con để hoàn chỉnh quyển Tộc Phả Nguyễn Vị. Chúng ta nên xưng hô với nhau là Bác Chú, Anh Em. Bác chỉ nên gọi tôi là “cha” khi tôi làm lễ hay cử hành các Bí tích thôi.
Xin vui lòng chuyển lời tôi chào thăm Bác gái và các Cháu.
Hiệp thông cầu nguyện cho nhau và cho Tổ Tiên.
Phi Khanh Vương Đình Khởi, ofm