Lm Vương Đình Khởi Kể Chuyện Về Cuộc Đời Viện Phụ Duy Ân Vương Đình Lâm
Kể chuyện cuộc đời
Nguyên Viện Phụ Duy Ân (Gioan) VƯƠNG ĐÌNH LÂM
(*30/10/1930 tại Tho Ninhà +7/2/2019 tại Phước Lộc)
Lời giới thiệu,
Sau lễ an táng Viện Phụ (VP) Duy Ân ngày 11 tháng 2 năm 2019 tại Đan Viện Thánh Mẫu Phước Sơn, Phước Lộc, Bà Rịa-Vũng Tàu, chú Vương Đình Chữ đề nghị làm một (PK) quyển Album về VP Duy Ân để giúp con cái, cháu chắt của Ông Bà Cố Giuse VƯƠNG ĐÌNH THÔNG và Maria TRẦN THỊ TAM tưởng nhớ người Anh Cả, người Bác, người Cậu, người Ông thân yêu. Sáng kiến này nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của nhiều người, và Lm Phi Khanh Vương Đình Khởi đề nghị thêm rằng nên đưa vào quyển Album đó bài “Kể Chuyện Cuộc Đời VP Duy Ân”, mà các em gọi là “Anh Hai” và các cháu gọi là "Bác Lâm, Cậu Lâm”, còn các chắt thì gọi là “Ông Lâm”.
Gọi “tiểu sử” thì hơi to lớn, đúng hơn nên coi đây là bài tổng hợp cuộc “phỏng vấn Anh Hai” do chú Tư Phi Khanh thực hiện trong hai ngày 23 và 24 tháng 7 năm 2012 tại Nhà Cộng đoàn Thánh Giuse thuộc Dòng Phước Sơn trong Sa mạc Lucern Valley, bang California/Hoa Kỳ, nhân dịp Anh Hai mừng kỷ niệm Ngọc Khánh (60 năm) Khấn Dòng (20/8/1952-20/8/2012), đúng vào thời điểm chú Tư Phi Khanh sang giảng tĩnh tâm cho Hội Dòng Mến Thánh Giá Los Angeles gốc Phát Diệm. Vào ngày lễ mừng Ngọc Khánh Khấn Dòng của Anh Hai, chú Tư cũng được mừng ké Kim Khánh Khấn Dòng của mình (2/9/1962-2/9/2012). Vào năm đó Anh Hai đã thôi làm Viện Phụ Nhà Mẹ Thánh Mẫu Phước Sơn, Phước Lộc và Hội Trưởng Hội Dòng Xitô Thánh Gia từ năm 2005, để sang Mỹ lập cộng đoàn Thánh Giuse tại sa mạc này.
Chính Anh Hai kể chuyện cuộc đời mình bằng cách tuần tự trả lời các câu hỏi của chú Tư. Chú Tư ghi chép kiểu tốc ký, nhưng chỉ viết lại thành văn bản sạch sau khi Chúa gọi Anh Hai về với Chúa ngày 7-2-2019. Chú Tư viết thêm vài cước chú để giúp độc giả hiểu rõ hơn một vài chi tiết [ghi trong ngoặc đơn (PK)].
* * *
Xin Anh Hai cho biết đôi điều về thời thơ ấu và tuổi trẻ của Anh Hai trước khi đi tu.
-Anh sinh ngày 30 tháng 10 năm 1930 tại Tho Ninh, Đức Thọ, Hà Tĩnh, rửa tội ngày 1 tháng 11 năm 1930 cũng tại Thọ Ninh do Cha Lê Ngọc Uyển. Anh mang tên Thánh Giuse giống như Thầy và anh Chương của em.
-Học tiểu học (bây giờ gọi là cấp I) tại trường làng Thọ Ninh.
-Xưng tội, rước lễ lần đầu lúc 8 tuổi, năm 1938, do Thầy Già Bằng dạy kinh bổn.
-Chịu Phép Thêm Sức lúc 10 tuổi do Đức Cha Eloy Bắc xức trán và cũng do Thầy Già Bằng dạy giáo lý. Thầy Già có công lớn với Thọ Ninh, vì đã dạy giáo lý Xưng Tội Rước Lễ, Thêm Sức và Hôn Phối cho nhiều thế hệ; Thầy xướng kinh, đọc bài nguyện ngắm trong nhà thờ và hát lễ mồ một mình bằng tiếng Latinh sang sảng.
-Anh học trung học (cấp II) tại trường Saint Joseph (sau 1945 đổi tên thành Trường Đậu Quang Lịnh // Lĩnh) ở bên Nghĩa Yên đối diện với Thọ Ninh, do Cố Lạng (Lantrade) thuộc Hội Thửa// Thừa Sai Paris xây khi ngài làm Hạt Trưởng. Đi học thì phải đi đò-ngang qua bên kia bờ sông La.
-Hồi nhỏ Anh hay giúp Mẹ làm tràng hạt mã não. Mẹ đi bỏ mối cho Bà Xơ Quang, Dòng Mến Thánh Giá Hướng Phương trong Quảng Bình và cho Bà Nga, giáo dân, ở Tân Yên ngoài Quỳnh Lưu.
- Chú Tư ngắt lời Anh Hai: Em liên lạc khá nhiều với các Hội Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam, riêng Hội Dòng MTG Nha Trang, gốc Hướng Phương di cư vào Tân Bình/Cam Ranh, em có ghé thăm mấy lần, và luôn đến chào Bà Xơ Quang đã cao niên, rất hiền lành và đạo đức, mà em gọi là “Dì Quang”, vì là bạn thân của Mẹ.
- Anh Hai kể tiếp: Mẹ cũng nuôi tằm, kéo tơ, và bán cau khô cho người ta ăn trầu. Khi mới về làm dâu Ông Bà Nội, Mẹ gánh vác nhiều công việc nặng nhọc, nhưng Mẹ của ta khoẻ lắm, thời con gái dám bơi qua bờ bên kia của sông La. Thầy Mẹ được Ông Bà Nội cho ra ở riêng khá sớm, sử dụng một phần ngôi nhà chính của Ông Bà, có sân lát gạch phía trước.
-Còn Thầy thì bị mụt tràng nhạc, một dạng lao hạch ở cổ, phải mổ, nên mang sẹo suốt đời. Thầy không khoẻ bằng Mẹ đâu. Nhưng Thầy được hưởng học bổng của Toà Giám Mục Xã Đoài, đi học trường sư phạm của các Sư Huynh La-San tại Nam Định ba năm. Thầy nói tiếng Pháp rất giỏi, giống như mấy ông Tây. Sau đó, theo hợp đồng với Toà Giám Mục, Thầy đi dạy học trong mấy làng Công giáo như Kẻ Gai, Mỹ Dụ…, và cũng dạy tiếng Pháp một thời gian tại trường Saint Joseph/Đậu Quang Lịnh // Lĩnh nữa.
-Thầy thì nghiêm, Mẹ thì dịu dàng, hay can thiệp, bênh vực con cái khi bị Thầy phạt bằng roi.
-Hồi nhỏ Anh thích nuôi cá rô thia (tức cá lia thia có nhiều màu), cho nó chọi nhau với cá rô thia của người khác. Vì là cháu đich tôn, nên Anh được ở và ăn cơm bên nhà Ông Bà Nội. Anh giúp Ông Nội nuôi một con khướu ở dưới dàn nho, bên cạnh bể cạn có hòn non bộ với mấy con cá vàng. Ông Nội có nhiều ruộng đất, trồng lúa, trồng mía, có trâu kéo che ép mía[1]. Anh thích uống nước chè mía, tức là nước mía ép ra thì cho vào chảo lớn, đun sôi lâu giờ mới thành mật, nhưng khi mới sôi mà múc uống thì gọi là “nước chè mía”, chỉ ngọt vừa phải thôi, chưa ngọt đậm như mật. Sát vườn nhà Ông Nội, là nhà Ông Thông Hạnh mà Mẹ ta gọi bằng chú ruột, ông Thông Hạnh lại thích nuôi gà nòi để chọi gà, nhưng Ông có nghề bí truyền chữa bệnh điên, giúp cho nhiều người khỏi bênh.
-Anh hay chơi với người bạn thân là Nhỏ Nhi ở xóm Đuôi Leo, tức xóm cuối làng, vì anh ta cùng sinh hoạt với Anh trong Nhóm các chú giúp lễ và Hội Nghĩa Binh Thánh Thể.
2. Cám ơn Anh Hai. Anh Hai có trí nhớ tốt. Bây giờ xin Anh Hai cho biết: ơn gọi đi tu đến với Anh Hai như thế nào?
-Chuyện này là một chương quan trọng và khá phức tạp. Lúc Anh lên khoảng 13 tuổi (1943), có mấy Cha Dòng Phước Sơn từ Quảng Trị ra thăm Thọ Ninh, trong số đó Cha Stanislas Trương Đình Vang là Bề Trên. Anh thấy cách ăn mặc hay hay và bộ điệu của các ngài thì từ tốn khiêm nhường dễ gây thiện cảm. Anh bắt đầu thấy thích. Vào thời điểm đó, ở Thọ Ninh đã có “phong trào” đi tu, như chú Vương Đình Bích nhập Tiểu Chủng Viện, chú Vương Đình Tài là em ruột đi Dòng Chúa Cứu Thế…, và một số người khác nữa. Khi Ông Nội đoán biết Anh muốn đi tu, Ông tỏ vẻ không bằng lòng lắm, vì Ông nói: Anh là cháu đích tôn, nên phải ở nhà với Ông Bà và Thầy Mẹ. Nhưng Ông không cấm đoán cách gay gắt. Phía Anh thì ý muốn đi tu Dòng Phước Sơn ngày càng mạnh mẽ hơn trong lòng, nên Anh bắt đầu tập luyện “khổ tu” tại gia: bằng cách cầu nguyện riêng nhiều hơn, và trong mùa đông thì mỗi sáng sớm lẻn ra sông La tắm, rồi rủ rê vài người nữa đi tu với mình cho có bạn. Ông Nội có vẻ bận tâm nhiều về Anh, vì có lần Ông nói với Anh: “Nếu con muốn đi tu thật, thì nên đi Dòng Chúa Cứu Thế như chú Tài…”.
-Vào năm 1945 Nhật đảo chính Pháp, trường Saint Joseph bị đóng cửa. Ông Nội ta mở lớp dạy chữ Nho cho mấy đứa cháu không được đến trường bên Nghĩa Yên nữa, như chú Vương Đình Cam, anh Hai, anh Phương của em và Trần Xuân Lan con O Báu, v.v...(Anh Chương của em lúc đó đã nhập Trường Thử Xuân Phong rồi, để chuẩn bị vào Tiểu Chủng Viện Xã Đoài, còn em thì mới 6 tuổi, còn nhỏ, nên đang học tiểu học ở Thọ Ninh). Việc học chữ Nho là do hoàn cảnh bắt buộc nên không hào hứng lắm, nhất là Anh thì sốt ruột muốn đi tu sớm.
-Mẹ của ta, nhân một chuyến đi vào Hướng Phương giao hàng tràng hạt mã não cho Bà Xơ Quang, đã đi hành hương La Vang. Những ngày Mẹ đi vắng, Anh hẹn với hai đứa bạn mà Anh đã rủ rê thoát ly gia đình đi tu Phước Sơn, rằng ngày nọ ngày kia ba người sẽ lên tàu lửa đi vào Quảng Trị…, và Anh đã đánh liều lấy tiền của Mẹ cất trong tủ để mua vé tàu, mà vẫn nghĩ trong bụng là không có tội đâu, vì tiền của Mẹ thì cũng như của mình thôi…, vả lại nếu trực tiếp xin Mẹ thì chắc Mẹ sẽ không từ chối. Nhưng Anh chưa kịp mua vé thì hai đứa bạn kia bỏ cuộc. Thế là vỡ kế hoạch! Và Anh trả lại tiền cho Mẹ cách kín đáo. Mẹ đi La Vang về, mang lá Vằng về sắc cho cả nhà uống vui vẻ. Còn Anh thì tự rút kinh nghiệm là phải hành động cách khác, trong sáng hơn, không nên nóng vội và làm liều.
-Sau lễ Phục Sinh năm 1946, cha phó xứ Võ Viết Hiền đứng ra tổ chức một chuyên đi tĩnh tâm tại Nhà Dòng Phước Sơn Quảng Trị, được một số người nhiệt tình hưởng ứng, trong số đó có Anh. Anh tâm sự riêng với Mẹ về ý muốn đi tu, và nhờ Mẹ xin phép Thầy và Ông Bà Nội cho Anh đi theo cha Phó để tĩnh tâm thôi. Các Đấng đồng ý cả, và khi Mẹ trao tiền tàu hoả cho Anh, thì Mẹ nói: “Đây là tiền phần rỗi linh hồn của con”. Nhưng Mẹ nói thêm: “Con đi một năm rồi về nha”. Có lẽ Mẹ đã biết ý của Ông Nội. Số người đi theo cha Hiền lần đó gồm có Anh, có thêm O Điểm (sau này đi tu Dòng Bác Ái Thouret bên Lào với khoảng 10 nữ tu gốc Thọ Ninh nữa), rồi O Nhàn mà anh em mình phải gọi bằng chị họ (sau này đi tu Dòng Kín Cát Minh Bình Triệu với tên gọi trong Dòng là Xơ Thanh Liêm). Tĩnh tâm xong thì mọi người đi về, còn Anh, Anh xin ở lại Nhà Dòng Phước Sơn luôn.
3. Chú Tư: Như vậy là Anh Hai đã quyết định một điều quan trọng lúc 16 tuổi. Xin Anh Hai kể cho em nghe Anh Hai đã trải qua các giai đoạn huấn luyện trong Dòng Phước Sơn như thế nào.
-Đúng vậy, năm 1946 đó Anh lên 16 tuổi và được nhận vào Nhà Đệ Tử Phước Sơn tại Nhà Tổ của Hội Dòng do Cha Đáng Kính Biển Đức Thuận sáng lập năm 1918. Trong giai đoạn đệ tử, Anh tập làm quen với nếp sống Nhà Dòng khổ tu, thinh lặng nhiều, tập hy sinh, tập đọc kinh cầu nguyện, và học văn hoá cho xong chương trình Trung Học. Anh may mắn được học tiếng Pháp với một giáo sư giỏi, tên là Thầy Đàng.
Phước Sơn ở vùng rừng núi hoang sơ, nên người ta dễ bị bệnh sốt rét, thương hàn. Chính Anh ở Nhà Đệ Tự được khoảng một năm thì bị sốt nặng. Đáng lý Anh phải về gia đình chữa bệnh, nhưng đường sá cách trở và sức khoẻ sa sút, việc đi lại không an toàn, nên Bề trên đành phải cho ở lại Nhà Dòng, chữa được cách nào thì chữa. Năm 1948, số đệ tử đã tăng lên, lại gặp lúc mất mùa, Nhà Dòng thiếu hụt lương thực trầm trọng, Bề Trên quyết định cho các chú đệ tử tạm về gia đình. Lúc đó bệnh sốt rét của Anh đã tạm ổn, nên Anh phải về Thọ Ninh. Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, vừa đi vừa sợ gặp nạn, lại vừa lo âu không biết tương lai đời tu của mình sẽ ra sao? – Chỉ biết phó thác cho Chúa thôi.
Cũng may, thời đói kém không kéo dài, nên năm 1949 Cha Bề Trên cho thầy Menkixêđê Trọng ra Thọ Ninh đón Anh về Nhà Dòng. Cảm tạ Chúa! Nhưng đi xe lửa từ Vinh vào tới Đồng Hới thì thấy đường sắt vừa bị cắt, không thể đi xa hơn, hai thầy trò buộc phải đi bộ vào Quảng Trị. Trong khi băng qua đường rừng thì gặp một chú bộ đội Việt Minh mang súng với vẻ nghi ngờ, khiến Anh cảm thấy run…, chỉ cầu nguyện thầm thôi. Nhưng Anh khai thật là vì đường xe lửa bị cắt, nên hai thầy trò đi bộ băng rừng để về Nhà Dòng Phước Sơn. Cuối cùng chú bộ đội để cho đi, và hai thầy trò đã về tới nơi bình an, nên quên hết mệt mỏi và lo âu.
Sau Anh ít lâu thì có thêm mấy người Thọ Ninh vào tu Phước Sơn.
Năm 1950, lúc 20 tuổi, Anh được nhận vào Nhà Tập cùng một ngày với năm người đồng hương: Thầy Khang, Thầy Trí con Bác Xuân (là anh cả của bác Đoài, bác Oanh bà con với ta), Thầy Duyệt, Thầy Minh Nguyện và chú Vương Đình Bích. Ba Thầy Khang, Trí và Duyệt đã đổi hướng sớm. Riêng Thầy Trí thì đi học võ ở Bình Định, về Thọ Ninh mở lớp dạy võ cho thanh thiếu niên, nên có một thời đám chăn trâu mấy làng bên lương như Thọ Tường, Yên Mỹ không dám đánh nhau với bọn chăn trâu Thọ Ninh, vì chúng nói: “quân Thọ Ninh có võ”. Còn Thầy Minh Nguyện tiến đến chức Linh mục trong Dòng, nhưng sau đó xin chuyển sang làm Linh mục triều và tháp nhập vào giáo phận Xuân Lộc. Chú Bích ban đầu đi Chủng Viện địa phận Vinh, nhưng rồi xin vào Dòng Phước Sơn. Hai chú cháu đồng hành với nhau từ năm Nhà Tập, và sẽ được Bề Trên gửi đi du học Thuỵ Sĩ ở Hauterive. Như em biết, Chú sẽ chuyển sang Dòng Đức Mẹ Người Nghèo, và một thời làm Bề Trên Cả Dòng đó. Sau lớp này, còn có thêm anh Minh, con cậu Hương, cũng nhập Phước Sơn, ở bậc trợ sĩ được hai năm thì rút lui và ở lại Huế rồi vào Sàigòn, không về Thọ Ninh nữa.
Anh nhớ gì, kể nấy, nên không được thứ tự lắm, xin em thông cảm.
-Chú Tư Phi Khanh: Xin Anh Hai yên tâm. Anh Hai kể chuyện những người đồng hương Thọ Ninh như thế cũng hay. Cảm tạ Chúa đã thương ban cho Thọ Ninh chúng ta rất nhiều ơn gọi. Bây giờ xin Anh Hai cho biết thêm về bản thân Anh Hai từ năm Nhà Tập trở đi.
-Anh Hai: Khi vào Nhà Tập tháng 8/1950, Anh nhận được tên Thánh mới là “Protasiô”, một vị Thánh ít được người ta biết đến. Nhà Tập kéo dài hai năm, vào thời Cha Marie-Bernard Mendiboure làm Bề Trên, kế nhiệm Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận qua đời năm 1933. Sau Cách Mạng tháng 8 năm 1945, Cha Bề Trên thứ hai của Hội Dòng Phước Sơn non trẻ này bị Việt Minh tập trung về Nhà Xứ Cầu Rầm, TP Vinh, cùng với tất cả các thừa sai người Pháp. Thầy đan sĩ Albertô đánh bạo đi từ Phước Sơn ra Vinh xin Chính Quyền Việt Minh tha cho ngài, vì ngài chỉ tu hành trong Nhà Dòng, không hoạt động gì bên ngoài cả. Thế là Cha Bề Trên được thả về, tiếp tục hướng dẫn các đan sĩ và huấn luyện các tập sinh. Vào năm 1951, vì tuổi già sức yếu, Ngài xin từ chức, và cha Emmanuel-Triệu Chu Kim Tuyến được chọn làm Bề Trên kế nhiệm ngài. Chính Cha Chu Kim Tuyến quyết định thay tên Thánh Protasiô của Anh bằng tên Thánh Gioan Tông Đồ “để làm con Đức Mẹ, vì ngài yêu mến Đức Mẹ nhiều”. Phần Anh, rất vui sướng được mang tên vị Tông Đồ được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Và Cha Kim Tuyến nhận lời khấn tạm lần đầu của Anh vào ngày lễ kính Thánh Bênađô 20-8-1952.
Khấn chưa được bao lâu thì Anh bị một chứng bệnh lạ: nổi nốt đỏ khắp cả người. Nhà Dòng chữa không lành, đành phải cho một Thầy tên là Thầy Nghị đưa Anh đi vào bệnh viện Quảng Trị. Nhưng vì chiến tranh khốc liệt, không thể đi theo quốc lộ, mà phải băng qua rừng. Đây là lần thứ hai Anh làm cuộc mạo hiểm như thế. Thầy Nghị có nhiều kinh nghiệm về đường rừng, nói với Anh: phải giả vờ đi săn nai. Anh phải đi theo Thầy với khoảng cách chừng 20 mét. Khi nghe Thầy đằng hắng hai tiếng thì liệu chui vào ẩn mình bên một gốc cây; phía Thầy cũng ẩn mình đâu đó. Đằng hắng một tiếng là an toàn, thì đứng lên đi tiếp. Và đã xảy ra là Anh phải nằm một đêm tại một gốc cây to, gần một làng Việt Minh. Nghĩ tới rắn rết và đủ thứ nguy hiểm khác thì chỉ có cách đọc kinh, lần hạt, xin Chúa và Đức Mẹ che chở thôi. Sau hai ngày một đêm thì tới Quảng Trị. Thở phào nhẹ nhõm.
-Nhưng lạ thay, không biết bằng cách nào các nốt đỏ trên người Anh biến mất đâu hết! Vậy là khỏi phải làm phiền các Bác sĩ nữa. Anh nghĩ: có lẽ hai ngày cuốc bộ, toát mồ hôi, thì chất độc trong người bị thải ra hết chăng? Dù sao thì cũng phải hết lòng tạ ơn Chúa và Đức Mẹ cho đi trót lọt và không cần nhập viện. Thầy Nghị biết rõ ý Cha Bề Trên đã dặn dò, nên dẫn Anh đi tiếp vào trụ sở Dòng Phước Sơn tại Huế bằng cách xin đi nhờ xe nhà binh của quân đội quốc gia. Anh được lệnh ở lại đó. Sang năm 1953, lại được lệnh đi vào Đà Nẵng, rồi xuống tàu thuỷ vào Saigòn. Tạm trú mấy tháng tại Nhà Dòng Phước Lý ở Xoài Minh, Đồng Nai vừa thành lập trong năm 1952. Diễn biến dồn dập của cuộc chiến tranh thúc bách các Bề Trên phái cha Bernarđino Trần Phúc Dược đi lập thêm một Nhà Dòng nữa tại giáo xứ Gò Công, Long Thạnh Mỹ, quận Thủ Đức vào năm 1953. Chính vào năm này, Cha Tổng Phụ Xitô bên Roma chỉ thị cho cha Stanislas Trương Đình Vang, Bề Trên Nhà Phước Lý ra miền Trung quy tụ anh em Nhà Tổ Phước Sơn Quảng Trị vừa được lệnh của Chính Quyền Việt Minh buộc phải tản cư hết, vì có chính sách “tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống” tại một số tỉnh phía bắc miền Trung. Cha Vang dẫn anh em đi vào miền Nam, một phần trú tại Phước Lý, một phần ở Thủ Đức. Anh thì có mặt sẵn tại Phước Lý rồi, nhưng được Cha Vang xếp vào nhóm đi Thủ Đức, còn chú Bích nhập nhà Phước Lý.
-Năm 1954, hai chú cháu được Cha Tổng Phụ bên Roma cấp cho hai học bổng sang Thuỵ Sĩ du học. Đi tàu thuỷ mất 31 ngày, vé thuộc hạng bình dân mà Anh không say sóng chút nào. Vào ngày 20-7-1954, lúc hai chú cháu còn lênh đênh trên biển, thì tại Genève chính phủ Pháp và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ký kết hiệp định đình chiến chia đôi đất nước Việt Nam.
-Cập bến cảng Marseille ở miền nam Pháp, rồi lên tàu lửa sang Fribourg bên Thuỵ Sĩ. Hai chú cháu học hai năm tại Đan Viện Hauterive của Dòng Xitô theo chương trình đào tạo của Dòng.
-Năm 1956 Cha Tổng Phụ cho phép Anh sang Roma, trọ tại Nhà Trung Ương của Dòng Xitô, nhưng đi học thần học bên Đại Học Thánh Anselmô của Dòng Biển Đức, cùng có chung một linh đạo đan tu chiêm niệm và một Tổ Phụ là Thánh Biển Đức.
-Ngày 24-8-1957 Anh được chịu chức Linh mục tại Hauterive cùng một lúc với Cha Stephanô Trần Ngọc Hoàng, sau này làm Viện Phụ của Đan Viện Châu Sơn, Đơn Dương, Đàlạt. Hồi đó, các sinh viên Xitô Việt Nam du học châu Âu thường về nghỉ hè tại Hauterive.
-Năm 1958 Anh thi đậu bằng cử nhân Thần Học.
-Tiếp theo là ba năm làm luận án tiến sĩ thần học mà Anh thi đậu giữa năm 1961.
-Cuối năm 1961 thi vào Trường Kinh Thánh Biblicum của Dòng Tên và thi đậu bằng cử nhân Kinh Thánh giữa năm 1963.
-Sau đó, cuối tháng 9/1963 Anh trở về Việt Nam bằng tàu thuỷ, nhưng lần này chỉ mất 19 ngày thôi. Được Thầy Mẹ đón tại Bến Bạch Đằng, Saigòn, sau 17 năm xa cách.
-Chú Tư Phi Khanh: Cảm tạ Chúa đã cho Anh Hai trải qua một quá trình học vấn chuyên sâu, tích luỹ được nhiều kiến thức phong phú về Thần Học và Kinh Thánh. Em xin phép tò mò hỏi: Anh Hai đã chọn những đề tài nào cho luận án Tiến Sĩ Thần Học và luận văn Cử Nhân Kinh Thánh?
- Anh Hai: Luận án Tiến sĩ Thần học trình tại Đại Học Anselmô tập trung vào một tác giả thuộc Đại Gia Đình Xitô. Đó là Gilbert de Hoyland (người Anh quốc), từng là một Viện Phụ Xitô, tiếp nối tác phẩm của Thánh Benađô chú giải sách Diễm Tình Ca. Luận án của Anh đã được một tác giả trích dẫn tại mục từ “Gilbert de Hoyland” trong Dictionnaire de Spiritualité (Từ Điển Linh Đạo).
Còn luận văn Cử Nhân Kinh Thánh trình tại Trường Biblicum thì so sánh Bài Ca Ngợi Khen Magnificat của Mẹ Maria trong Phúc Âm Luca (Lc 1, 46-55) với Bài Ca của bà Anna, mẹ ngôn sứ Samuen (x. 1Sm 2, 1-10).
-Chú Tư Phi Khanh: Như vậy, cả hai đề tài đều liên quan khá nhiều tới Kinh Thánh. Em không ngạc nhiên khi biết Anh Hai đã được chọn làm người kiểm duyệt bản dịch Kinh Thánh trọn bộ do Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ thực hiện để xác nhận “Nihil obstat” (Không có gì cản trở) khi họ xin phép xuất bản.
4. Thưa Anh Hai, sau 9 năm du học châu Âu, Anh Hai về lại Nhà Dòng Phước Sơn Thủ Đức. Từ đây bắt đầu giai đoạn cống hiến của Anh Hai, giống như con tằm đã ăn rỗi biết bao lá dâu, nay nhả tơ, dệt nên những tấm lụa, phục vụ cộng đoàn đan sĩ và Giáo Hội. Xin Anh Hai cho biết những sinh hoạt nào đã để lại dấu ấn sâu đậm trên cuộc đời và ký ức của Anh Hai.
-Anh Hai: Khi Anh hồi hương năm 1963, cũng là thời điểm xảy ra một sự kiện quan trọng trong đại gia đình Xitô Việt Nam. Đại Hội Dòng Xitô quốc tế quyết định nâng ba cộng đoàn Phước Sơn Thủ Đức, Châu Sơn Đơn Dương và Phước Lý Xoài Minh lên hàng “Đan Phụ Viện” (tiếng Pháp là: “Abbaye”; tiếng Anh: “Abbey”), mà Bề Trên trở thành “Đan Viện Phụ” (Abbé, Abbot), nói gọn là “Viện Phụ”. Quyết định này kéo theo một quyết định quan trọng khác của Toà Thánh là: nâng ba “Đan Phụ Viện” vừa nêu, liên kết với Nhà Dòng Châu Sơn Nho Quan ngoài Bắc thành Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam năm 1964. Riêng Đan Viện Phước Sơn Thủ Đức được công nhận là sự nối dài của Nhà Tổ Phước Sơn Quảng Trị đã bị xoá sổ trong cuộc di cư năm 1953, và Viện Phụ của Phước Sơn Thủ Đức kiêm nhiệm chức vụ Hội Trưởng của Hội Dòng Xitô Thánh Gia. Cha Chu Kim Tuyến, vốn là Bề Trên thứ ba của Nhà Tổ Phước Sơn Quảng Trị sau Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận và Cha Marie-Bernard Mendiboure, đã trở thành Viện Phụ tiên khởi của Phước Sơn Thủ Đức từ năm 1963 và Viện Phụ Hội Trưởng tiên khởi của Hội Dòng Xitô Thánh Gia từ năm 1964. Từ năm 1963, Anh làm việc dưới quyền của Đức Viện Phụ Chu Kim Tuyến.
-Ngày 1 tháng 10 năm 1963, Ngài bổ nhiệm Anh làm Giám Đốc Đệ Tử Viện bên cạnh Đan Viện, với công việc khẩn trương là xây nhà mới cho các đệ tử. Vừa xây nhà, vưa tổ chức chương trình huấn luyện cho các tu sinh.
-Ngày 21-11-1970, anh tròn 40 tuổi, được bầu làm Viện Phụ Đan Viện Phước Sơn kiêm Hội Trưởng Hội Dòng Xitô Thánh Gia. Việc đầu tiên phải làm là xây dựng lại cơ sở Đan Viện, vì anh em đang ở tạm trong những mái nhà tôn vách ván đơn sơ. Công trình xây dựng kéo dài 4 năm (1971-1974). Anh đã chọn phong cách kiên trúc Á đông theo tinh thần hội nhập văn hoá được Công Đồng Vaticanô II khuyến khích. Ngày 15-7-1974 Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình làm lễ cung hiến long trọng thánh đường của Đan Viện.
-Ngày 30-4-1975 chế độ Cộng Hoà Miền Nam sụp đổ, lịch sử đất nước Việt Nam bước vào một khúc ngoặt mới: hai miền Nam Bắc thống nhất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Đời sống Giáo Hội, nhất là sinh hoạt của các dòng tu, phải thích ứng với tình hình mới, rất phức tạp và đầy khó khăn. Anh và các người hữu trách quyết định chia anh em thành nhiều nhóm. Vài địa điểm đã có sẵn trước rồi, như Vũng Tàu từ năm 1969 đã là nhà nghỉ của đệ tử, nhưng sau 30-4-1975, cho các đệ tử về gia đình và một số các cha các thầy từ nhà Mẹ Phước Sơn Thủ Đức đến ở để thành lập cộng đoàn mang tên Thiên Phước. Phước Lộc đã có từ năm 1970 như một nông trại nhằm cung cấp lương thực cho Nhà Mẹ Thủ Đức, sau 30-4-1975 được tăng cường nhân sự gồm 30 anh em. Tại đây đã có sẵn 10 hecta ruộng trồng lúa và một diện tích đất khá rộng, có thể xây một đan viện mới. Một địa điểm mới hoàn toàn là Trá // Trà Vinh, một nhóm anh em được phái xuống đó lập cộng đoàn mang tên Phước Vĩnh. Nhà Mẹ Thủ Đức cũng như ba cộng đoàn nhà con vẫn duy trì được nếp sống đan tu một cách khá bình thường.
-Thế rồi, một biến cố hết sức bất ngờ đã ập xuống trên Nhà Mẹ Thủ Đức, trong lúc Anh đang ở Thánh Mẩu, Đàlạt thăm Mẹ của ta vừa bị đứt gân máu và cấp cứu tại bệnh viện Đàlạt. Sự kiện xảy ra như thế này: Sáng sớm ngày 21 tháng 1 năm 1978, Công an đến bao vây Đan Viện, tập họp Cha Viện Phó Đominicô Phạm Văn Hiền và toàn thể cộng đoàn lại…[2], rồi áp giải Cha Viện Phó và hầu hết các cha các thầy vào giam trong mấy nhà tù Thành Phố Hồ Chí Minh. Họ chiếm giữ toàn bộ cơ sở và tài sản của Đan Viện Phước Sơn Thủ Đức. Ngày hôm sau có Dì Toan, Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán lên Đàlạt báo tin khẩn cho Anh. Anh chỉ biết sấp mình thờ lạy Thánh Ý Chúa. Và Anh về Sàigòn ngay để gặp Đức Tổng Bình. Lúc đó Anh mới biết: không chỉ Phước Sơn, mà còn bốn Nhà Dòng khác ở quận Thủ Đức cũng bị như vậy. Đó là Nhà Dòng Chúa Cứu Thế, Nhà Dòng Đaminh nam, Nhà Dòng Sư Huynh La San, và Nhà Dòng Đon Bosco. Theo lời khuyên của Đức Tổng, Anh ra trình diện Công An Thủ Đức, bị họ giữ lại và cách ly, không được giam chung với các Cha các Thầy. Anh rất thương anh em, nhất là Cha Viện Phó, đã phải mang gánh nặng thay cho Viện Phụ, nhưng không có cách nào liên lạc được với nhau.
-Ba tháng ròng rã sống cô đơn, không có sách kinh để đọc, không có Bánh Rượu để làm lễ, chỉ cầu nguyện một mình, thuộc được Thánh Vịnh nào thì đọc thầm và nhất là lần Chuỗi Mân Côi. Để Anh kể cho em nghe câu chuyện hi hữu sau đây. Nhà Dòng Phước Sơn có hai phuy rượu lễ do Cha Dược gửi từ Thuỵ Sĩ về. Các chú bộ đội tìm thấy thì mừng lắm. Họ cho vào chai và ghi nhãn hiệu là “Dấm”, rồi phân phát cho nhau, cho cả Công An Thủ Đức nơi Anh bị tạm giam nữa. Các bao bột mì trong kho Nhà Dòng, họ cũng chia nhau, nấu bánh canh, nấu cháo hoặc làm bánh xèo. Một anh Công An Thủ Đức hý hửng khoe với Anh như thế, và Anh xin anh ta cho Anh được một be Dấm và một nhúm bột mì. Chắc chắn anh ta không thể biết Anh dùng để làm gì. Anh còn mượn được cả cái bật lửa của anh ta nữa. Rồi Anh đi quét sân gom lá rụng và tìm thấy hai vỏ sò. Thế là khi làm công tác vệ sinh môi trường, đốt lá rụng, để lập thành tích…!, Anh đã nướng được một miếng bánh không men lớn bằng đồng tiền. Với chừng đó và ít giọt “Dấm” là Anh có thể cử hành Thánh Lễ. Kinh nguyện Thánh Thể II thì Anh thuộc lòng rồi. Anh đã quét là khô và nướng bánh không men như thế để làm lễ vào ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng, được mấy lần, cho đến khi hết Dấm và bột mì, thì chỉ còn có thể Rước Lễ Thiêng Liêng nữa thôi. Một niềm an ủi đặc biệt Chúa ban cho Anh một cách hết sức bất ngờ. Anh tin rằng Bảy Ơn Cả của Chúa Thánh Thần đã khiến “cái khó làm ló cái khôn”, như ai đó đã từng nói.
Trong thời gian bị giam, Công An hạch hỏi Anh nhiều điều, nhưng không hề tra tấn và dùng nhục hình. Sau khoảng ba tháng họ cho Anh và hầu hết các Cha các Thầy được về, nhưng không về lại Nhà Dòng Thủ Đức, mà phải về trụ sở 81B Trần Bình Trọng ở quận 5 tức là Chợ Lớn. Hơn năm chục anh em chen chúc trong ngôi nhà thông thường chỉ đủ chỗ cho vài chục người, lại thiếu thốn đủ điều, không có áo Dòng mà mặc, không đủ sách kinh để đọc. Chắc chắn phải tìm giải pháp. Riêng Cha Viện Phó và một Thầy nữa bị giam thêm 11 năm mới được thả về đoàn tụ với anh em.
-Chú Tư Phi Khanh: Giải pháp nào thưa Anh Hai?
-Anh Hai: Cấp bách nhất là phải làm gì để nuôi sống 50 anh em vừa đi tù về, cọng thêm 5 anh em thường trú tại trụ sở Trần Bình Trọng, trong lúc đó ba nhà con Vũng Tàu, Phước Lộc và Trà Vinh tự xoay xở được. Anh sắm thêm ít chiếc xe đạp và một cái cyclo ba bánh. Thánh lễ và các giờ kinh được sắp xếp thế nào để anh em còn có giờ lao động, chủ yếu là làm thuê làm mướn cho người ta. Anh và mấy thầy trẻ thay phiên nhau đạp xe cyclo chở người ta và hàng hoá ra chợ.
Có lần một cán bột // bộ Mặt Trận Tổ Quốc trách mắng Anh: “Anh là một nhân vật quan trọng mà đi đạp cyclo…, cố ý làm mất mặt chế độ hả?”. Anh chỉ trả lời: “thưa cán bộ, tôi cũng phải lao động như anh em tôi để có gì mà ăn chứ? Lao động là vinh quang mà!”.
Trong thời gian mới về trụ sở Trần Bình Trọng có một sự kiện không thể nào quên. Đó là lễ khấn trọn đời của 4 Thầy trẻ vào ngày… tháng… năm 1978 (?), trong số đó có Thầy Lê Văn Đoàn (bây giờ, tức năm 2012, là Viện Phụ Phước Sơn và Hội Trưởng Hội Dòng Xitô Thánh Gia): Không có áo Dòng, không có Đan viện, không có người thân tham dự. Nhưng bầu khí vẫn thánh thiện, vui tươi. Một lễ khấn hết sức đặc biệt, hiếm khi xảy ra trong lịch sử Dòng Xitô.
Công An biết rõ hoàn cảnh của hơn 50 anh em sống trong ngôi nhà chật chội và lao động vất vả, nên làm hết cách gây sức ép để anh em, nhất là các anh em trẻ xin xuất tu về với gia đình. Họ cũng ghi địa chỉ gia đình mấy Thầy lớn tuổi và khuyên các Thầy nên về ở với bà con ruột thịt. Nhưng tất cả, già cũng như trẻ, đều một mực từ chối.
Tình hình căng thẳng đến mức Công An ra hạn cho các tu sĩ trẻ suy nghĩ 3 ngày, nếu không ký giấy xin xuất tu, sẽ bị trục xuất khỏi trụ sở 81B Trần Bình Trọng. Anh phải đích thân lên gặp Mặt Trận Thành Phố và nói với họ: “Theo tôi được biết thì chế độ này không có chính sách cấm tu. Vậy việc Công An đe doạ trục xuất anh em tu sĩ của tôi là sai luật”. Họ nghe, nhưng lại cảnh cáo Anh: “Chúng tôi lưu ý Anh: Anh không được dụ dỗ người trẻ ở lại tiếp tục tu”.
Sau mấy tuần lễ “đấu tranh” căng thẳng, cuối cùng Mặt Trận đưa ra giải pháp gồm 3 điểm:
Cho các anh ở lại tu.
Các tu sĩ trẻ đi lao động nông trường.
Các tu sĩ khác chia thành ba nhóm, và Nhà Dòng phải tự tìm 3 địa điểm, nhưng phải là trong Thành Phố Hồ Chí Minh.
Sau khi bàn bạc với Anh em, Anh chọn:
Tam Hà thuộc Quận Thủ Đức: một gia đình Công giáo ở gần Dòng Naza cho mượn một hecta, nhưng tạm thời thôi vì đất của họ đang bị Chính Quyền doạ lấy.
Dòng Đức Mẹ Người Nghèo của Chú Vương Đình Bích ở Bình Triệu sẵn lòng cắt cho Phước Sơn một phần đất, với tờ giấy ghi: “Ở bao lâu thì ở”. Anh mua thêm một miếng đất sát đó. Sau một thời gian, Dòng Đức Mẹ Người Nghèo cần lấy lại đất, và qua thương lượng, Anh đã hoàn tiền lại cho Hội Dòng đó.
Và dĩ nhiên, trụ sở 81B Trần Bình Trọng, Quận 5. Anh thuộc Nhóm trụ trì tại trụ sở này.
Còn nhóm thứ 4 gồm những tu sĩ trẻ, thì do Chính Quyền chỉ định địa điểm cư trú là Nông Trường Phạm Văn Cội chuyên trồng trúc.
Trụ sở Trần Bình Trọng ở môi trường đô thị, không có đất canh tác như những nơi kia, nên Anh tổ chức cho Anh em sản xuất Sữa Chua Ya-ua, mỗi ngày bán được khoảng 500 hũ, và chiếc cyclo 3 bánh rất tiện lợi để đi bỏ mối và chở thuê hàng hoá cho người ta.
Ở Tam Hà, Anh em nuôi bò sữa, liên kết với kế hoạch sản xuất sữa chua.
Tất cả các nhóm đều cố gắng “tự lực cánh sinh” và nâng đỡ nhau, để chứng tỏ cho Chính Quyền thấy rằng các tu sĩ ở Việt Nam không được Hội Dòng quốc tế hay Toà Thánh Vatican tài trợ như từng có một luồng dư luận nào đó đồn đại!
Thực ra vẫn có nhiều người hảo tâm tại địa phương rất quảng đại sẵn sang // sàng giúp đỡ Anh em Phước Sơn, nhưng Anh từ chối nhiều hơn là nhận. Ví dụ: một số đồng bào bên lương ở Gò Công mang gạo lên Chợ Lớn biếu Nhà Dòng, vì biết ơn Nhà Dòng trước đây đã chia đất cho họ trồng trọt, mà nay Nhà Dòng mất hết nhà cửa và tài sản, rồi còn bị trục xuất đi xa họ nữa. Anh rất xúc động khi nhận món quà tình nghĩa ấy, đúng như người ta nói: “Miếng khi đói bằng gói khi no”. Chị Giám Tỉnh Clara Triệu của Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ biếu ba lượng vàng thì Anh cám ơn và xin Chị giữ lại để lo công việc từ thiện giúp đỡ người nghèo. Một giáo dân sắp vượt biên dâng cúng một trăm lượng vàng, xin cầu nguyện cho được bình an xuôi lọt; nếu sống sót thì chỉ xin Nhà Dòng cho lại một phần mười thôi để khởi sự lại. Anh cám ơn và hứa cầu nguyện cho gia đình ấy được bình an, nhưng Anh không nhận của dâng cúng đó. Một Ông Đại Hàn là chủ công ty xây dựng đường sá biếu một xe ôtô và một ngàn bao ximăng để xây Nhà Nguyện, thì Anh nhận ximăng, nhưng từ chối chiếc xe. Anh kể ra mấy trường hợp như thế để cảm tạ Chúa và biết ơn lòng tốt của nhiều Ân Nhân, nhưng Anh vẫn giữ vững quan điểm: cố gắng dùng ơn làm việc do Chúa ban cho để thực hiện điều Thánh Phaolô nhắc nhở: “Ai không làm việc thì đừng ăn” (x. 2Tx 3, 10).
Nhìn chung, các Nhóm đan sĩ Phước Sơn bị trục xuất khỏi Nhà Mẹ Thủ Đức vẫn được Chúa Quan Phòng chúc lành và ban ơn thích ứng nhanh chóng với nhiều môi trường khác nhau trong hoàn cảnh mới.
Riêng Nhóm Nông Trường Phạm Văn Cội bị đặt vào một tình huống phức tạp nhất. Ngoài các đan sĩ Phước Sơn, còn có các Nhóm tu sĩ Dòng Tên, Dòng nam Đa Minh, Dòng Don Bosco, hai Dòng Nữ Mến Thánh Giá Chợ Quán và Gò Vấp, cọng thêm Nhóm Chủng Sinh Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sàigòn. Đức Tổng Phaolô Nguyễn Văn Bình rất quan tâm và khích lệ khối Tu sĩ, Chủng Sinh đại diện cho giới Công Giáo trong một nông trường do người Cộng Sản điều khiển, hãy sống Phúc Âm và làm chứng cho Chúa Kitô trong môi trường xã hội chủ nghĩa.
Trong hai năm đầu các Tu Sĩ, Nữ Tu, Chủng Sinh đi lao động 8 tiếng mỗi ngày, trừ Chủ nhật, được chấm công cho điểm như mọi người, và có những giờ học tập chính trị do cán bộ của Đảng hướng dẫn. Kinh nghiệm độc đáo này đã thu hút nhiều nhóm khách quốc tế, kể cả những đại diện của nhiều tôn giáo, đến thăm Nông Trường Trúc Phạm Văn Cội.
Từ đầu năm 1980, Chính Quyền cho khối Tu sĩ-Nữ tu-Chủng sinh được tự quản. Trong thực tế một mình Phước Sơn bám trụ tại đó, còn các Dòng khác chỉ biến nơi đây thành chỗ dừng chân. 12 Đan sĩ trẻ Phước Sơn nuôi heo, nuôi bò sữa, ép mía nấu đường, thuê đất trồng lạc (tưới nước ban đêm vì ban ngày quá nhiều công việc!). Anh em đọc trại “PS = Phước Sơn” thành “PS = Phục Sinh”, vì cộng đoàn đầy sức sống tươi trẻ: trong nội bộ, một lòng xây dựng tình huynh đệ và giúp nhau sống đời đan tu theo châm ngôn của Thánh Tổ Biển Đức: “Ora et Labora = Cầu nguyện và Lao động”; đồng thời cởi mở với mọi người để tạo tương quan thân ái. Khi Chính Quyển tuyển mộ một số tu sĩ đi bộ đội, thì có ba Anh em Phước Sơn tình nguyện nhập ngũ, đó là Cha Nghĩa, Cha Huệ và Thầy Tình. Sau ba năm làm nghĩa vụ quân sự, cả ba chú bộ đội xuất ngũ nguyên vẹn, khoẻ mạnh và rắn rỏi hơn.
Năm 1993 cộng đoàn Nông Trường giải thể, tất cả Anh em rút về một vài cộng đoàn khác, sau 15 năm sống một cuộc mạo hiểm thiêng liêng đầy ý nghĩa, làm cho mỗi người kiên vững hơn trong ý chí tu trì. Chắc chắn các tu sĩ thuộc những Dòng khác hoặc thuộc Nhóm Chủng Sinh Giáo Phận cũng được tôi luyện tích cực trong “lò Nông Trường”. Cụ thể là từ trong Nhóm các Chủng Sinh đó, ngày nay Giáo Hội có được hai Giám Mục: Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm và Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống.
Chú Tư Phi Khanh: Đúng như Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa làm cho mọi sự (gồm cả những hoàn cảnh thuận lợi hoặc khó khăn), đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8, 28 ). Anh Hai làm Viện Phụ Phước Sơn Thủ Đức và Hội Trưởng Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam 35 năm. Trong thời gian lâu dài đó Chúa đã dùng Anh Hài để thực hiện những công trình nào?
Anh Hai: Mọi công trình đều do Chúa hoạch định, mọi ân huệ đều do Chúa ban. Chúng ta chỉ là những khí cụ Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu độ của Người.
a. Để trả lời câu hỏi của em, trước tiên Anh muốn kể về Nhóm Phước Lộc. Bây giờ nhìn lại, Anh thấy Chúa Quan Phòng đã an bài một cách kỳ diệu: Ngay từ năm 1970 Nhà Mẹ Phước Sơn Thủ Đức đã lập một cộng đoàn nhỏ tại Phước Lộc thuộc tỉnh Bà Rịa để trồng lúa cung cấp lương thực cho Nhà Mẹ. Sau 30-4-1975 cộng đoàn này được tăng cường nhân sự đến 30 thành viên. Công việc sản xuất cũng như đời sống tu trì khá ổn định. Sau biến cố đau thương ngày 21-01-1978, vì Nhà Mẹ Phước Sơn Thủ Đức bị Chính Quyền trưng thu và biến thành trường đào tạo lực lượng Công An, nên Anh em phải nghĩ tới kế hoạch xây dựng một Nhà Mẹ mới. Địa điểm được chọn là Phước Lộc.
Từ năm 1986 Đảng Cộng Sản Việt Nam quyết định chính sách Đổi Mới, khiến bầu khí xã hội có phần dễ thở hơn, kể cả trong phạm vi tôn giáo. Năm 1989 Bức Tường Bá Linh sụp đổ và khối Cộng Sản Liên Xô và Đông Âu thay đổi chính thể, khiến chính sách Đổi Mới tại Việt Nam được đẩy mạnh nhanh hơn. Trong bối cảnh đó, kế hoạch xây dựng Đan Viện Phước Sơn mới tại Phước Lộc được thực hiện từng bước, cẩn trọng nhưng vững chắc. Bước đầu tiên là đưa Anh em từ Tam Hà và Anh em đã rời Nông Trường về Phước Lộc. Với số nhân sự khá đông và khoẻ mạnh, công trình xây dựng Đan Viện mới khởi động từ năm 1996 và Nhà Thờ mang tên “NHÀ CHA” được cung hiến ngày 1 tháng 9 năm 1999 trước thềm thiên niên kỷ thứ ba. Nhà Mẹ mới ở Phước Lộc cũng theo phong cách kiến trúc Á Đông, có lẽ còn độc đáo hơn Nhà Mẹ cũ tại Thủ Đức, vì có yếu tố thuận lợi là vùng Phước Lộc có loại đá hoa cương gra-nít kích cỡ lớn với số lượng khá nhiều.
b. Tiếp đến là Cộng đoàn Thiên Phước Vũng Tàu: Anh đã được bổ nhiệm làm Giám Đốc Đệ Tử từ năm 1963. Trước Tết Mậu Thân 1968 Anh đưa khoảng 100 Đệ Tử ra Vũng Tàu chơi ít ngày trong dịp năm mới. Nhưng bất ngờ xảy ra cuộc tổng tấn công của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào chính ngày Tết nguyên đán khắp nơi trong Miền Nam, khiến Anh và các Đệ Tử bị kẹt 3 tuần tại Vũng Tàu. Anh quen Ông Trùm Tý có nhiều đất ở Bãi Dâu. Ông quảng đại biếu cho Nhà Dòng một phần đất của Ông chỉ cách tượng đài Đức Mẹ Bãi Dâu khoảng 300m để làm nhà nghỉ hè cho các chú Đệ Tử. Đến năm 1970 Anh được bầu làm Viện Phụ Nhà Mẹ Phước Sơn Thủ Đức, thì lên kế hoạch trồng cây bạch đàn, phủ kín khoảng 11 hecta, mà phần lớn là do Ông Trùm Tý, một phần nhỏ hơn do vài ân nhân khác hiến tặng. Sau 30 tháng 4 năm 1975, một nhóm Đan sĩ dăm bảy người đến ở. Từ năm 1991 tăng thêm nhân sự và nhận thêm ơn gọi trẻ, nên nhà cửa cũng được nới rộng, dù chỉ là nhà bằng gỗ. Năm 1999 Nhà Thiên Phước được nâng lên “Nhà Tự Trị” (Sui Juris). Từ năm 2003, xây dựng Đan Viện và Thánh Đường vững chắc bằng bêtông. Ngày 30-05-2007 (lúc đó Anh hết làm Viện phụ Hội Trưởng) Bàn Thờ và Thánh Đường được cung hiến trọng thể. Năm 2008 cộng đoàn Thiên Phước được nâng lên hàng Đan Phụ Viện. Chỉ 33 năm sau 1975 mà phát triển được như thế thì phải nói là nhanh.
c. Cộng đoàn Phước Vĩnh, Trà Vinh, khởi đầu rất nhỏ bé sau 30-4-1975, và đã trải qua nhiều bước thăng trầm, có lúc các tập sinh bị Chính Quyền giải tán, nhưng cộng đoàn vẫn kiên trì phát triển, nên vào năm 2001 được Hội Dòng Xitô Thánh Gia nâng lên hàng Đan Viện Tự Trị, và cuối cùng được Chính Quyền Tỉnh Trà Vinh chấp thuận cho “Đăng Ký Hoạt Động Tôn Giáo” vào ngày 23-12-2005, chỉ vài tháng sau khi Anh thôi làm Viện Phụ Phước Sơn và Hội Trưởng. Tình trạng ổn định về cả hai mặt đối nội và đối ngoại sẽ dẫn Đan Viện Tự Trị này lên hàng Đan Phụ Viện, giống như Thiên Phước Vũng Tàu thôi. Sau Anh là Cha Đominicô Phạm Văn Hiền, rồi Cha Gioan Thánh Giá Lê Văn Đoàn gánh vác trách nhiệm Viện Phụ Nhà Mẹ Phước Sơn Phước Lộc và Hội Trưởng Hội Dòng Xitô Thánh Gia.
d. Bây giờ Anh phải nói đôi điều về Cộng Đoàn Xitô Châu Sơn Nho Quan ngoài Bắc. Cộng đoàn này được vinh dự là đứa con đầu lòng của Nhà Tổ Phước Sơn Quảng Trị từ năm 1936, chỉ 3 năm sau khi Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận được Chúa gọi về với Chúa (ngày 25-7-1933), nghĩa là dưới thời Cha Marie-Bernard Mendiboure làm Bề Trên thứ hai của Nhà Tổ Phước Sơn (1933-1951). Cộng đoàn Nhà Tổ bầu chọn Cha Anselmo Lê Hữu Từ làm Bề Trên tiên khởi của Nhà Con Châu Sơn Nho Quan, với số nhân sự hơn chục người. Chúa ban cho cộng đoàn này phát triển mạnh và nhanh về nhân sự và cơ sở tu viện. Giữa năm 1945 Toà Thánh bổ nhiệm Cha Bề Trên Lê Hữu Từ làm Giám mục Địa phận Phát Diệm, kế vị ĐC Gioan Maria Phan Đình Phùng. Bề Trên kế nhiệm ngài là Cha Marcô Nguyễn Quang Vinh gốc Nghệ Tĩnh (quê nội là Mỹ Dụ, Nghệ An, quê ngoại là Yên Phú, một giáo họ của Thọ Ninh ta ở Hà Tĩnh). Sau Cách Mạng tháng 8/1945, nảy sinh nhiều khó khăn cho Giáo Hội Miền Bắc nói chung và Nhà Dòng Châu Sơn Nho Quan phải chịu nhiều thử thách lớn lao. Năm 1952 cha Gioan Berchmans Nguyễn Văn Thảo dẫn một nhóm đan sĩ và các đệ tử di tản vào Miền Nam, tạm trú tại Phước Lý Xoài Minh, trước khi lên lập Đan Viện mới tại Đơn Dương, Lâm Đồng năm 1957, mang tên Đan Viện Châu Sơn Đơn Dương.
Trong số những người ở lại Nho Quan, có Cha BT Nguyễn Quang Vinh và 3 cha nữa bị bắt năm 1953, bị đấu tố và giam tù nhiều nơi. Cha Vinh chết rũ tù năm 1966 tại nhà tù Cổng Trời trong tình trang // trạng biệt giam nghiêm ngặt sau 13 năm thụ án chung thân. Trước Cha hai năm, một đan sĩ khác của Châu Sơn Nho Quan cũng kết thúc cuộc đời tại Cổng Trời khét tiếng đó. Trong các cộng đoàn của Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Châu Sơn Nho Quan là Nhà Dòng đã chịu nhiều thử thách đau đớn nhất, nhưng được vinh dự có những thành viên chết trong tù như chứng nhân đức tin. Những hạt lúa gieo vào lòng đất, chết đi cách ô nhục dưới con mắt người đời, nhưng Chúa làm mọc lên cách nhiệm mầu những cây lúa khác trong cánh đồng Xitô Việt Nam. Bằnh chứng là Nhà Mẹ Châu Sơn Nho Quan đã sinh ra Nhà Con Châu Sơn Đơn Dương, rồi đến lượt Châu Sơn Đơn Dương sinh ra “Nhà Cháu” Châu Thuỷ tại Láng Goòng, Lagi, Bình Thuận. Cả con lẫn cháu đều phát triển mạnh mẽ, bất chấp thử thách và khó khăn do hoàn cảnh xã hội tạo ra. “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng; Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” [Tv 126 (125), 5-6]. Lời Chúa đã chẳng nói như vậy đó sao?
e. Thời gian tại nhiệm của Anh là 35 năm. Chúa dùng Anh để tiếp nối và phát huy công trình mà Chúa đã bắt đầu với Cha Tổ Phụ từ năm 1918 và các Vị Tiền Nhiệm của Anh. Anh luôn cố gắng giữ sự trung thành với tinh thần của Đấng Sáng Lập, nếu phải thích ứng điều gì với hoàn cảnh mới thì cố gắng theo đúng đường hướng của Giáo Hội sau Công Đồng Vaticanô II, trong sự tuân thủ Hiến Pháp và Thói Lệ của Hội Dòng, và trong tinh thần liên đới trách nhiệm với các Viện Phụ của các Đan Phụ Viện, và các Viện Trưởng của các Đan Viện Tự trị.
-Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận đã để lại nhiều bút tích quý báu, phản ánh các sinh hoạt và kinh nghiệm thiêng liêng của ngài. Nguyên Viện Phụ Chu Kim Tuyến đã dựa vào một số tư liệu đó để viết ra quyển Hạnh tích Cha Benoit Thuận, Tổ Phụ Chi Dòng Thánh Gia Việt Nam (NXB Hồng Lam, Saigòn, 1968). Quyển tiểu sử này đã giúp ích rất nhiều cho anh chị em trong Hội Dòng. Về phần Anh, đã cố gắng thi hành chỉ thị của Công Đồng Vaticanô II trong Sắc Lệnh Về Việc Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Tu Trì: ”Mỗi Hội dòng có đặc tính và phận vụ riêng nhằm mưu ich cho Giáo Hội. Do đó, phải trung thành đón nhận và tuân giữ tinh thần cũng như ý hướng đặc biệt của các Đấng Sáng Lập, cùng với các truyền thống tốt lành đã có, vì đó là những yếu tố tạo nên di sản của Hội dòng” (Perfectae caritatis, số 2,b). Anh đã dành nhiều thời gian để sưu tập, phiên dịch, chú thích và sắp xếp các bút tích của Cha Tổ Phụ Biển Đức Thuận, còn được lưu giữ đến nay tại nhiều nơi. Tập sách mang tên Di Ngôn Cha Biển Đức Thuận, Đấng Sáng Lập Hội Dòng Xitô Thánh Gia (1880-1933), xuất bản lần đầu năm 1993, tái bản năm 2003. Nhờ vậy mà càng hiểu rõ hơn tinh thần và sự thánh thiện của ngài, Anh càng ngưỡng mộ và yêu mến ngài hơn. Hy vọng, nếu đẹp lòng Chúa, Cha Biển Đức Thuận sẽ được Giáo Hội công nhận là mẫu gương thánh thiện cho con cái thiêng liêng của ngài và cho những thành phần khác của Dân Chúa nữa. Thật là kỳ diệu khi Chúa tạo ra quy luật “Tre già Măng mọc” trong đời sống gia đình tự nhiên và gia đình Giáo Hội, và trong cả lịch sử Hội Dòng Xitô Thánh Gia. Sau quyển Hạnh tích Cha Benoit Thuận do Viện Phụ Chu Kim Tuyến biên soạn, và quyển Di Ngôn Cha Biển Đức Thuận do Anh sưu tập, thì nay (tức năm 2012) có đương kim Viện Phụ Phước Sơn và Hội Trưởng Gioan Thánh Giá Lê Văn Đoàn vừa hoàn tất một công trình nghiên cứu chuyên sâu về cuộc đời và sự nghiệp của Đấng Sáng Lập Hội Dòng Xitô Thánh Gia. Linh mục sinh viên Lê Văn Đoàn đã tìm thấy thêm một số bút tích nữa của Cha Tổ Phụ được lưu giữ bên Pháp, đồng thời Toà Tổng Giám Mục Huế cũng phát hiện thêm mốt số lá thư của ngài, khiến kho báu Di Ngôn sẽ phong phú hơn, mà các thế hệ măng non sẽ tiếp tục khai thác và đào sâu.
-Nhắc tới những tài liệu của Đấng Sáng Lập và những công trình nghiên cứu về ngài, thì tất nhiên phải nói đôi điều về vấn đề huấn luyện. Mọi thành phần Dân Chúa cần được huấn luyện cách thích hợp với bậc sống của mỗi người. Việc giáo dục nhân bản và đức tin đã bắt đầu ngay trong mỗi gia đình Công giáo rồi. Phương chi trong gia đình thiêng liêng là các Dòng tu, vấn đề huấn luyện các thành viên lại càng cấp bách và quan trọng. Trước 1975 đã có vài hình thức trao đổi kinh nghiệm giữa ba Đan Viện tự trị: Phước Sơn Thủ Đức, Phước Lý Xoài Minh và Châu Sơn Đơn Dương, và đã tổ chức được vài cuộc tĩnh huấn cho các Tập sinh của 3 Đan Viện. Những năm sau 1975, các Hội Dòng cũng như các Chủng Viện gặp rất nhiều khó khăn do hoàn cảnh xã hội tạo ra. Mỗi Hội dòng, mỗi cộng đoàn tuỳ hoàn cảnh mà làm được gì thì làm, theo nguyên tắc “huấn luyện trong cuộc sống và qua cuộc sống”. Tuy nhiên, trong trường hợp bất thường này, mọi người trong cuộc phải gồng mình tối đa trong những điều kiện tối thiểu mình có trong tay. May thay, với luồng gió “Đổi Mới” của Đảng và Nhà Nước từ năm 1986, các Chủng Viện và Dòng tu có hoàn cảnh thuận lợi hơn để tổ chức chương trình huấn luyện bài bản hơn. Trong bối cảnh chung đó, Hội Dòng Xitô Thánh Gia, sau nhiều cố gắng hợp tác giữa các Đan Viện tự trị, đã thành lập được Ban Giáo Dục Hội Dòng năm 1990, vào thời điểm Chúa ban cho Hội Dòng nhiều ơn gọi mới, đặc biệt từ các giáo phận Miền Bắc. Ban Giáo Dục Hội Dòng hoạt động nhiệt tình với nhiều sáng kiến, đặc biệt trong việc tổ chức nhiều cuộc tĩnh huấn dành cho mọi lứa tuổi và thành phần, kể cả những Đan sĩ cao niên, và những Vị Đặc Trách Huấn Luyện trong các giai đoạn khác nhau, từ Thỉnh sinh, Tập sinh, Khấn Tạm, đến Khấn trọng. Các sinh hoạt phong phú đó dẫn tới việc thành lập Học Viện Triết Học riêng cho Hội Dòng vào năm 1999, là năm hoàn thành công trình xây dựng Đan Viện Thánh Mẫu Phước Sơn và cung hiến nguyện đường “NHÀ CHA” tại Phước Lộc là Nhà Mẹ mới của Hội Dòng. Học Viện Triết Học trong năm học đầu tiên là chính Trụ Sở 81B Trần Bình Trọng của Phước Sơn. Vì chật chội và ồn ào trong môi trường phố thị, không thuận lợi cho việc học hành và tu hành, nên Anh phải vận động để xây dựng một ngôi nhà tương đối rộng rãi hơn tại Bình Triệu trên miếng đất Anh đã mua lại của Dòng Đức Mẹ Người Nghèo và mua thêm một miếng khác ráp vào đó. Lớp Triết học 2000-2001 chuyển về Học Viện mới tại Bình Triệu, nhưng vẫn không đủ chỗ cho mọi sinh viên, vì thế một số sinh viên vẫn phải cư trú tại trụ sở của Đan Viện mình ở Saigòn và đến học tại Bình Triệu như sinh viên “ngoại trú”.
Viện Phụ Đominicô Phạm Văn Hiền rất nhiệt tình với việc huấn luyện Triết học, nên ngài tự nguyện thôi chức Viện Phụ Nhà Mẹ và Hội Trưởng trước thời hạn, để dốc toàn tâm toàn lực chăm lo cho Học Viện Triết Học Bình Triệu với chức danh Giám Đốc Học Viện. Chắc chắn ngài không chỉ tập trung vào việc huấn luyện tu đức và trí tuệ mà cũng quan tâm tới việc hoàn thiện cơ sở vật chất.
Sau Học Viện Triết Học thì phải nghĩ tới Học Viện Thần Học, vì những anh em hướng tới chức Linh mục đã phải xin học ké tại Đại Chủng Viện Giáo Phận hoặc Học Viện của những Hội Dòng khác. Trong năm 2005, trước khi Anh thôi làm Viện Phụ Hội Trưởng thì Tổng Hội của Hội Dòng Xitô Thánh Gia đã quyệt định thành lập Học Viện Thần Học riêng cho toàn Hội Dòng, với nguyên tắc ban đầu là: mỗi cộng đoàn trong 4 Đan Viện tự trị: Phước Sơn/Phước Lộc, Châu Sơn/Đơn Dương, Phước Lý/Xoài Minh và Thiên Phước/Vũng Tàu tiếp đón các sinh viên của Hội Dòng đến học theo thứ tự: Thần I, Thần II, Thần III, Thần IV. Tuy nhiên, do một số khó khăn thực tiễn, cuối cùng Tổng Hội chấp nhận phương án hai cơ sở thay vì bốn cơ sở của Học Viện Thần Học: Năm I và Năm II Thần học được tổ chức tại cơ sở I là Phước Sơn/Phước Lộc; Năm III và Năm IV Thần học tại cơ sở II là Châu Sơn/Đơn Dương. Hội Dòng đã chuẩn bị một số giáo sư là Đan sĩ Xitô, nhưng chưa đủ, nên cần mời thêm giáo sư từ những Dòng khác hoặc Đại Chủng viện Giáo phận.
-Cảm tạ Chúa đã an bài cho Hội Dòng có được hai Học Viện: Triết Học và Thần Học, để các Đan sĩ trẻ được đào tạo trong môi trường đặc thù của đời sống đan tu chiêm niệm, đồng thời sống tình hiệp thông huynh đệ một cách cụ thể trong cùng một Đại Gia Đình Xitô Thánh Gia.
-Anh muốn nói thêm một tí về tờ Nội San của Hội Dòng: Nó không chỉ để chia sẻ tin tức, nhưng còn là một phương tiện góp phần vào việc huấn luyện thường xuyên của mọi thành viên. Vào năm 1971-1972, lúc Anh mới bắt đầu nhiệm kỳ Hội Trưởng, thì Tổng Hội đã quyết định cho ra đời Tờ Nội San mang tên “Nội San Liên Lạc Thánh Gia”, nhưng chỉ mới ra được 6 số thì ngưng. Và từ năm 1975 trở đi không ai dám nghĩ tới việc nuôi dưỡng một tờ tập san, cho đến năm 2005, trước khi Anh thôi làm Hội Trưởng, Anh đề nghị Tổng Hội nên làm sống lại “Nội San Liên Lạc Thánh Gia”, mà Anh đề nghị gọi bằng tên mới là “Nội San Hạt Giống Chiêm Niệm”. Tổng Hội đồng ý. Anh không ngờ tập san này đã tạo ra một bầu khí hào hứng và giúp Đại Gia Đình Hội Dòng đào sâu những đề tài thiết thực của đời sống đan tu chiêm niệm. Một nguyên nhân giải thích sự phong phú và khả năng tạo hào hứng của tờ tập san mới là sự kiện Chúa ban cho Hội Dòng có thêm những thành viên được học chuyên sâu về Kinh Thánh, Linh Đạo và Thần Học. Tất cả là hồng ân, nhằm làm sáng Danh Thiên Chúa và góp phần xây dựng Giáo Hội. Tạ ơn Chúa.
-Một công trình lớn lao khác đáng nói là sự hình thành Dòng Nữ Xitô Việt Nam. Trong lịch sử Giáo Hội hầu hết các Dòng tu đều có cả nhánh nam và nhánh nữ. Dòng Biển Đức và Dòng Xitô bên châu Âu đều như vậy. Đại gia đình Phan Sinh của em cũng thế thôi. Chính cha Marie-Bernard Mandiboure, Đấng kế vị Cha Tổ Phụ, sau năm 1933 đã đưa ra đề nghị lập nhánh nữ Xitô Việt Nam. Nhưng xem ra hoàn cảnh chưa chin muồi. Cha Emmanuel Chu Kim Tuyến là Bề Trên thứ ba của Nhà Tổ Phước Sơn Quảng Trị 1951-1953, và Bề Trên tiên khởi của Nhà Dòng Phước Sơn Thủ Đức 1954-1963 rồi trở thành Viện Phụ tiên khởi của Đan Viện Phước Sơn Thủ Đức 1963-1970 kiêm chức vụ Hội Trưởng của Hội Dòng Xitô Thánh Gia 1964-1970, vì Phước Sơn Thủ Đức đóng vai trò Nhà Mẹ mới của Hội Dòng, chính ngài rất nhiệt tình vận động cho ý tưởng lập Dòng Nữ Xitô. Ngài đưa vấn đề ra cho cộng đoàn Nhà Mẹ, và hai lần (1969 và 1970) cho cuộc họp Tổng Hội của Hội Dòng Xitô Thánh Gia thảo luận, nhưng chưa có quyết định gì cụ thể, mặc dầu một nhóm thiéu nữ, trong đó có vài người cháu gái của ngài, đã bày tỏ ước muốn sống đời đan tu Nữ Xitô. Tổng Hội 1971 quyết định cho phép ba Đan Viện tự trị Phước Sơn Thủ Đức, Châu Sơn Đơn Dương và Phước Lý Xoài Minh thử nghiệm lập Dòng Nữ. Anh kế vị Đức Emmanuel Chu Kim Tuyến từ năm 1970, vì biết được ước muốn tha thiết của ngài, và trong cương vị Hội Trưởng, Anh đặc biệt quan tâm tới vấn đề này.
Ngài về hưu tại Phước Lý là nơi có Cha Viện Trưởng Gioan Nguyễn Văn Luận rất mạnh dạn thực hiện ngay sự cho phép của Tổng Hội 1971. Hai Vị nhiệt tình hợp tác với nhau, lại được các Đức Giám Mục Giáo Phận Xuân Lộc tận tình nâng đỡ, nên việc lập Dòng Nữ Xitô đã thành công bước đầu rất khả quan. Trong thời gian hai Vị con sống, thì:
-Năm 1972 Đức Cha Giuse Lê Văn Ấn chấp thuận cho thử nghiệm 3 năm Dòng Nữ Xitô, tạm thời đặt tại Bãi Dâu, Vũng Tàu.
-Ngày 8/12/1973 Anh dẫn đầu Tổng Hội Hội Dòng Xitô Thánh Gia đến làm phép Nhà Dòng mới do Cha Viện Trưởng Nguyễn Văn Luận xây dựng tại Bàu Sen gần Đan Viện Phước Lý. Và ngày Đại Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm ấy được chọn làm ngày khai sinh và bổn mạng của Nữ Đan Viện Xitô đầu tiên tại Việt Nam. Ban đầu được gọi là Nữ Đan Viện Xitô Phước Lý, sau đổi tên thành Nữ Đan Viện Thánh Mẫu Vĩnh Phước.
-Năm 1976 Đức Cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng ban phép mở Tập Viện tại Bàu Sen và cho các tập sinh tuyên các lời khấn theo Hiến Pháp Dòng Xitô Thánh Gia.
-Cộng đoàn non trẻ đầy sức sống này đã phát triển khá mạnh và nhanh, nên vào năm 1982 Anh thay mặt Hội Dòng Xitô Thánh Gia nâng cộng đoàn Bàu Sen lên hàng Đan Viện Tự Trị. Hai Vị đã có công thành lập cộng đoàn Nữ Tu Xitô Việt Nam đầu tiên này là Cha Viện Trưởng Nguyễn Văn Luận và nguyên Viện Phụ Chu Kim Tuyến, bấy giờ đã già yếu, nên Anh phải trực tiếp chăm sóc cộng đoàn Đan Viện Nữ Xitô, tuy đã trưởng thành chỉ sau 10 năm thành lập (1972-1982), nhưng vẫn cần ổn định chỗ ở và được hỗ trợ trong việc huấn luyện về đời đan tu chiêm niệm. Chính các Nữ tu cũng như những Vị hữu trách trong Hội Dòng Xitô Thánh Gia nhận thấy Bàu Sen chưa phải là địa điểm thuận lợi về nhiều mặt, nên cần tìm một chỗ ở mới, và Đức Cha Phaolô-Maria Nguyễn Minh Nhật vào ngày 8-12-1989 đã chấp thuận cho Đan Viện Nữ Xitô Bàu Sen được dời đi nơi khác. May mắn, có hai gia đình Công giáo hảo tâm dâng cúng đất tại Đồi Ngọc thuộc giáo xứ Ngọc Đồng, Hố Nai, với tổng diện tích 11 hecta . Đức Cha Nguyễn Minh Nhật chấp thuận địa điểm mới và uỷ thác cho Anh công việc kiến thiết Đan Viện mới và giúp huấn luyện chị em về đời sống đan tu chiêm niệm.
Giữa năm 1991 Chị em rời Bàu Sen, tới Đan Viện mới trên Đồi Ngọc. Bước quan trọng tiếp theo là vào ngày 18-04-1993, ĐC Nguyễn Minh Nhật chấp thuận lời thỉnh cầu của Chị em, ban phép cho Nữ Đan Viện Xitô Vĩnh Phước tại Ngọc Đồng làm đơn xin liên kết với Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam về mặt pháp lý. Ngày 5-7-1997 Tổng Hội Hội Dòng Xitô Thánh Gia chấp thuận và ngày 21-9-1997 Đại Hội Dòng Xitô quốc tế xác nhận việc Nữ Đan Viện Xitô Vĩnh Phước chính thức gia nhập Hội Dòng Xitô Thánh Gia.
Anh kể khá nhiều chi tiết về cộng đoàn này, vì nhánh Nữ Xitô tuy được thành lập muộn hơn nhánh Nam Xitô trên nửa thế kỷ, nhưng đầy sức sống và hứa hẹn cho tương lai. Bằng chứng là Nhà Mẹ Vĩnh Phước Ngọc Đồng đã cho ra đời hai Nhà Con là Phước Hải tại Bãi Dâu, Vũng Tàu và Phước Thiên tại giáo xứ Hải Sơn, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa. Trong cả ba trường hợp, Chúa đã an bài cho Anh trực tiếp điều khiển việc xây dựng cơ sở, trong tư cách Viện Phụ Hội Trưởng (đối với Vĩnh Phước và Phước Hải) hoặc sau khi mãn nhiệm (đối với Phước Thiên). Anh chứng kiến tận mắt lòng quảng đại của nhiều Ân Nhân, tình thương tận tuỵ của nhiều vị Mục tử tại Giáo Hội địa phương và tình liên đới huynh đệ trong Đại Gia Đình Hội Dòng Xitô Thánh Gia. Thánh Tổ Biển Đức từng gọi Đan Viện là “Trường Học Bác Ái”. Qua kinh nghiệm tiếp tay xây dựng cơ sở vật chất và đời sống tinh thần cho ba Nữ Đan Viện Xitô, mà nay, vào năm 2012, đã được nâng lên hàng Đan Viện Tự Trị, Anh xác tín rằng sự Hiệp Thông Giáo Hội cũng đã dạy cho Anh nhiều bài học quý báu về Bác Ái. Vì thế Anh dám nói: Giáo Hội là một Trường Học Bác Ái vĩ đại.
Em ơi, Anh đã kể cho em nghe khá nhiều chuyện về Anh và Hội Dòng Xitô Thánh Gia bởi vì em đặt nhiều câu hỏi, nhằm mục đích chia sẻ lại cho các em các cháu của Anh. Vậy thì, xin các em các cháu hiệp ý với Anh, cảm tạ Chúa đã ban cho Anh nhiều ơn lành, và hãy cầu nguyện cho Anh được ơn trung thành với Chúa cho đến cùng và sống tuổi già có ích cho Hội Dòng và Giáo Hội.
Anh muốn chia sẻ thêm một tí về Mẹ chúng ta. Trong 35 năm làm Hội Trưởng Hội Dòng Xitô Thánh Gia, Anh đã đi dự Tổng Hội Xitô thế giới rất nhiểu lần. Riêng cuộc họp năm 1995, Anh nảy ý lên thăm Mẹ tại Thánh Mẫu Đàlat trước khi bay sang Roma. Thực ra năm đó Mẹ đã 85 tuổi và già yếu hơn, nhưng vẫn minh mẫn. Mẹ gặp Anh thì nói ngay: “Con cứ lo việc Nhà Dòng cho chu đáo, đừng bận tâm về mẹ. Có Chúa và các em lo cho mẹ, còn con cầu nguyện cho mẹ là tốt rồi”. Không ngờ, vào ngày 8 tháng 9 năm đó, đúng lễ Sinh Nhật Đức Mẹ Maria, Chúa cất Mẹ về, trong lúc Anh còn họp tại Roma. Đức Tổng Phụ và Tổng Hội đã cùng Anh dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho Mẹ. Dịp đó em đã thay Anh tổ chức lễ An Táng cho Mẹ tại Thánh Mẫu, còn Anh thì sau Tổng Hội, được Chúa an bài hết sức thuận lợi để đi hành hương Lộ Đức và Fatima, nhờ được ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận xin visa Vatican cho Anh vào Pháp và Bồ Đao Nha. Đi tới đâu thi lòng trí vẫn không ngớt nhớ Mẹ trong lời câu nguyện và suy gẫm nhiều về lời Mẹ căn dặn mà Anh coi như một lời trối thiêng liêng.
Ngoài ra, Anh nhớ mãi một câu của Đức Hồng Y Gioan-Baotixita Phạm Minh Mẫn nói với Anh khi Anh đến chào ngài để sang Hoa Kỳ mở tu sở mới tại California vào cuối tháng 9 năm 2005: “Viện Phụ Duy Ân giống như Ông Gióp giai đoạn hai”[3]. Ngài nêu tên Anh, vi Anh là Hội Trưởng, đại diện cho Hội Dòng Xitô Thánh Gia, nhưng trong thực tế là chính toàn thể Hội Dòng đã trải qua nhiều thử thách lớn lao, với nhiều anh em bị tù đày, một số thành viên chết trong tù và mất hai Đan viện lớn (Phước Sơn Quảng Trị và Phước Sơn Thủ Đức), nhưng vào năm 2005 Thiên Chúa chúc lành cho Hội Dòng và cho nhân số tăng lên gấp bội với hơn 1000 thành viên, sống trong 10 Đan Viện tự trị, 8 Đan Viện Nam Xitô: Phước Sơn Nhà Mẹ tại Phước Lộc, Châu Sơn Nho Quan, Châu Sơn Đơn Dương, Phước Lý Xoài Minh, Châu Thuỷ Lagi, Thiên Phước Vũng Tàu, Phước Vĩnh Trà Vinh, Fatima Orsonnens tại Thuỵ Sĩ; và 2 Nữ Đan Viện Xitô: Vĩnh Phước Ngọc Đồng, với Nhà Con Phước Hải Vũng Tàu. Vài cộng đoàn khác, như An Phước (nam Xitô) tại Long Thành, và Phước Thiên (nữ Xitô) tại Hải Sơn Bà Rịa trên đà phát triển mạnh mẽ, thì sớm muộn gì cũng sẽ tiến lên hàng Đan Viện tự trị thôi.
Cộng đoàn Thánh Giuse tại sa mạc Lucern Valley, nơi em đang phỏng vấn Anh trong năm 2012 này, mà Anh được bổ nhiệm làm Bề trên tiên khởi, cũng đang trên đà xây dựng và phát triển, hy vọng sẽ có ngày trở thành một Đan Viện Tự Trị. Ngoài ra, hầu hết các Đan Viện Tự Trị nhánh nam cũng như nhánh nữ, trong đó một số đã được nâng lên hàng Đan Phụ Viện, đều đã lập một số tu sở, ở nội địa cũng như ở nước ngoài, như Hoa Kỳ, Thái Lan… Điều đó cho thấy Hội Dòng Xitô Thánh Gia đang tăng trưởng với phép lành của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, sau khi trải qua nhiều thử thách đau thương. Vậy chính Hội Dòng Xitô Thánh Gia vào năm 2005 là “Ông Gióp giai đoạn hai” theo cách nói ví von của ĐHY Phạm Minh Mẫn.
Tất cả là hồng ân của Chúa mà thôi.
Chú Tư Phi Khanh: Em xin hiệp thông với Anh Hai và với Đại Gia Đình Xitô Thánh Gia tạ ơn Chúa vì vô vàn ơn lành Chúa ban cho Hội Dòng và cho bản thân Anh Hai. Đại Gia Đình Xitô Thánh Gia là một quà tặng lớn Chúa ban cho Giáo Hội vì đã và đang gieo vãi Hạt Giống Chiêm Niệm vào lòng Đất Mẹ Việt Nam và nhiều nơi khác nữa, còn Anh Hai thì không chỉ là một quà tặng Chúa dành cho Hội Dòng, mà cho cả các em các cháu trong gia đình nhỏ bé của chúng ta. Cảm tạ Chúa.
Em cũng cám ơn Anh Hai đã chia sẻ nhiều thông tin, mà chắc chắn các em, các cháu của Anh Hai sẽ đọc với rất nhiều thích thú.
* * *
Nội dung cuộc phỏng vấn năm 2012 được viết lại thành văn bản sạch trong tháng 3/2019 tại Tu viện Phanxicô Du Sinh, Đàlạt.
Sau đây xin phép ghi thêm vài sự kiện xảy ra với Anh Hai sau cuộc phỏng vấn đó:
-Theo ý Bề Trên, Anh Hai rời Cộng đoàn Thánh Giuse Hoa Kỳ về lại Nhà Mẹ Phước Sơn/Phước Lộc vào tháng 9 năm 2012 (?).
-Tuy về hưu, nhưng Anh Hai vẫn được phép tiếp tục giúp hoàn thiện công trình xây dựng Đan Viện Nữ Xitô Phước Thiên.
-Ngày 25-10-2012: Dịp lễ giỗ Ông Cố Giuse Vương Đình Thông, Anh Hai về Thánh Mẫu, Đalạt, đồng tế với Cha Xứ Gioan Phan Công Chuyển và cha Phi Khanh: mừng Ngoc Khánh Khấn Dòng của Anh Hai và Kim Khánh Khấn Dòng của chú Tư.
-Rồi sáng ngày 15/1/2015, trong Thánh Lễ tại Đan Viện Phước Lộc, Anh Hai bị tai biến mạch máu não, té xỉu. May có một Bác sĩ Công giáo dự lễ, cấp cứu ngay, nên chỉ bị tê bại nhẹ, nhưng phải ngồi xe lăn từ hôm ấy. Từ đó bắt đầu chuỗi thời gian điều trị, từ Tây y đi đến Đông y. Đan Viện Phước Sơn tạo mọi điều kiện để chữa bệnh cho Anh Hai, và cắt cử hai Đan sĩ là Thầy Quyết và Thầy Tâm thay nhau chăm sóc Viện Phụ Duy Ân hết sức tận tuỵ.
- Ngày 12/6/2015 Anh Hai được phép lên thăm Nhà Tổ của gia đình tại Thánh Mẫu, Đàlạt, mấy ngày trong tình trạng ngồi xe lăn, để kính viếng mộ phần của Cha Mẹ và Tổ Tiên Nội Ngoại đang an nghỉ tại Nghĩa Trang Giáo xứ Thánh Mẫu.
-Ngày 12/6/2017 Anh Hai được phép đi hành hương Đức Mẹ Tàpao, kết hợp với việc thăm viếng Đan Viện Xitô Châu Thuỷ và gia đình em rể Nguyễn Văn Linh, chồng của Vương Thị Tuyết tại Lagi, Bình Thuận.
-Đầu năm 2019 Anh Hai được phép lên Đàlạt lần thứ hai (trong tình trạng ngồi xe lăn) với mục đích giống như lần trước (năm 2015), nhưng thêm một ý khác quan trọng hơn, đó là: gia đình và tu viện của chú tư Phi Khanh tổ chức một Thánh Lễ Tạ Ơn Kép vào ngày 10-01-2019 tại tu viện Phanxicô Du Sinh vì Chúa cho Anh Hai bước vào tuổi Đại Thọ Cửu Tuần, còn chú Tư Phi Khanh bước vào tuổi Thượng Thọ Bát Tuần và kỷ niệm 50 Năm Linh Mục. Thánh Lễ lúc 9h do ĐHY Phêrô Nguyễn Văn Nhơn chủ tế và giảng, có 3 Đức Giám Mục đồng tế là ĐC Antôn Vũ Huy Chương, ĐC Cha Phó Đaminh Nguyễn Văn Mạnh của Giáo phận Đàlạt, và ĐC Giuse Võ Đức Minh của Giáo Phận Nha Trang, với 15 Linh mục Triều và Dòng. Dù số khách mời hạn chế do Nhà Nguyện Tu Viện hơi nhỏ, nhưng nổi bật là sự hiện diện của các nữ tu, trong đó đông nhất là Quý Chị MTG trong Ban Điều Hành Đại Gia Đình MTG Việt Nam và Quý Chị trong Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo MTG. Cuộc lễ đơn sơ, nhưng trang nghiêm, sốt sắng và thân tình. Cảm tạ Chúa, cám ơn Quý Đức Hồng Y và Quý Đức Cha, cám ơn Cộng Đoàn Phan Sinh Du Sinh, cám ơn Quý Khách và bà con bạn hữu.
-Không ngờ chỉ 4 tuần lễ sau đó, Chúa gọi Anh Hai về với Chúa lúc 12h30 ngày 7/02/2019 nhằm Mồng Ba tết Kỷ Hợi. Tất cả nằm trong Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa giàu long thương xót.
-Cuộc lễ An Táng tại Đan Viện Thánh Mẫu Phước Sơn, Phước Lộc ngày 11/02/2019 diển ra trang trọng, thánh thiện trong bầu khí gia đình rất thân tình, với bài giảng sâu sắc của Đức Viện Phụ Hội Trưởng Gioan Thánh Giá Lê Văn Đoàn (x. văn bản đính kèm), với sự hiện diện của các Đức Viện Phụ, Viện Mẫu và Viện trưởng cùng đông đảo các Nam Nữ Đan Sĩ của Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, và nhiều tu sĩ, nữ tu của nhiều Hội Dòng bạn và bà con ruột thịt của người quá cố.
Tạ ơn Chúa, vì tất cả là hồng ân.
Lm Phi Khanh Vương Đình Khởi, ofm
Người phỏng vấn và ghi chép
Đan viện Giuse Sa mạc
10-2004: mua đất
01-10-2005, VP Lâm làm phép đất, khởi công xây dựng
8-2006: Tổng tu h65i chấp thuận thành lập Tu sở
17-8-2008, làm phép nhà và khai mạc đời sống đan tu. Tên gọi: Đan viện Thánh Giuse
5-5-2013, làm phép nhà nguyện (GM Gerald R Barnes // GP San Bernadino)
[1] (PK) Cái gọi là “che ép mía” ở Thọ Ninh gồm 2 khối gỗ lớn hình tròn, đứng áp sát vào nhau một cách vững chắc, được gắn vào một cây gỗ thon thon và dài, một đầu của cây gỗ này được cột vào cổ con trâu (hoặc con bò). Con trâu cứ đi lòng vòng thì hai trục gỗ lớn kia xoay vòng ngược chiều nhau. Một người ngồi phía trước cứ nắm từng bó vài ba cây mía đã chặt thành khúc dài khoảng 1 mét và đã róc bớt vỏ cứng, đẩy vào giữa hai trục gỗ. Nước mía ép ra chảy theo rãnh xuống một cái vại hoặc chum lớn nằm sâu đưới đất. Người ngồi phía sau gom bã mía, đưa sang cho người ngồi phía trước để ép lần hai, lần ba… cho kiệt hết nước trong cây mía mới vứt bã ra ngoài. Đôi khi xảy ra tai nạn nghề nghiệp: người ngồi đút mía vào hai trụ gỗ ngủ gật hoặc sơ ý, để bàn tay chui qua kẽ hở giữa hai khối gỗ, thì than ôi…, bị cụt tay suốt đời!
[2] Anh Hai không cho biết Công An giải thích sự kiện này như thế nào. Đành rằng Anh Hai không có mặt lúc đó, nhưng chắc sau ít lâu Anh Hai phải được những anh em đã chứng kiến kể lại…; có lẽ vì là vần đề tế nhị, nên Anh Hai không nói ra. Chúng ta tôn trọng sự thinh lặng khôn ngoan đó.
[3] (PK) Sách Gióp trong Cựu Ước được ví như một cây đại thụ trong rừng văn chương thế giới. Đó là một tuyệt tác thuộc loại “văn chương khôn ngoan” của Kinh Thánh. Nội dung là câu chuyện về một nhân vật phi thường mang tên Gióp. Ông là người công chính, nhưng đã chịu thử thách tột độ, bị Satan hành hạ đủ cách, với phép của Thiên Chúa, từ chịu đựng bệnh phong cùi ghê tởm, đến mất mát hết tài sản và con cái, rồi bị bạn bè và người thân phản bội, xa lánh, nhạo cười…, vì dù bị Thiên Chúa và con người bỏ rơi, ông vẫn tin vào sự khôn ngoan, quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Qua đó ông chống lại quan niệm phổ biến của thời đại mình, cho rằng đau khổ là hình phạt dành cho tội lỗi mình đã phạm trong kiếp sống này…. Vì có những lúc quá đau khổ nên ông đã nguyền rủa cuộc đời mình. Cuối cùng, vì được trực tiếp gặp Thiên Chúa, nên ông khiêm tốn nhận biết mình đắc tội với Người, và đã khiêm tối rút lại những điều đã nói ra, rồi sấp mình thống hối ăn năn. Câu chuyện kết thúc rất có hậu. Ông Gióp, tuy bị thử thách và đau khổ tột độ, nhưng vẫn kiên trì tin tưởng vào sự công chính và khôn ngoan rất nhiệm mầu của Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa ban phần thưởng bội hậu ngay ở đời này, đó là có 7 con trai, 3 con gái đẹp nhất trong xứ, và tài sản, bò bê chiên cừu nhiều gấp đôi…, và ông được thấy con cái cháu chắt đến 4 đời. ĐHY Phạm Minh Mẫn gọi đó là “Ông Gióp giai đoạn hai”.