Lm Vương Đình Khởi Viết Về Họ Ngoại
Danh sach các Linh mục, Tu sĩ, Nữ tu trong số hậu duệ nội ngoại của Cao Tổ NGUYỄN VỊ
Do Lm Phi Khanh Vương Đình Khởi tổng hợp
(Bài nghiên cứu này nhằm trước tiên góp ý với Bác NGUYỄN VĂN KÍNH, tác giả quyển “Tộc Phả NGUYỄN VỊ, Tứ Đại Đồng Đường 2011”, dày 162 trang khổ A4, với nhiều hình ảnh rõ nét, đa số bằng màu, nhưng cũng muốn chia sẻ với tất cả bà con trong Dòng Tộc HỌ NGUYỄN-Cầu Khóng, Nghĩa Yên-, trong tinh thần hiệp thông Gia Tộc)
***
Theo quyển “Tộc Phả NGUYỄN VỊ-Tứ Đại Đồng Đường 2011”, trang 30-31, do Bác NGUYỄN VĂN KÍNH dày công biên soạn, thì Cao Tổ NGUYỄN VỊ (được tác giả mã hóa bằng mẫu tự V rút ra từ tên riêng của Cao Tổ Vị) có 5 người con (4 trai 1 gái), mà tác giả đã mã hóa bằng 5 mẩu tự A, B, C, D, E, ghép vào danh mã V. Đó là:
VA. NGUYỄN NGỌC MỸ (thường gọi là Cố Thông Mỹ), ở Cầu Khóng, Đức Yên, Đức Thọ;
VB. NGUYỄN NGỌC LƯƠNG (thường gọi là Cố Ký Lương –hay là Kỳ Lương?), ở Nam Đàn;
VC. NGUYỄN THỊ VIỆT (theo tên chồng, thường gọi là Cố Cụ Việt), ở Đức Yên, Đức Thọ;
VD. NGUYỄN NGỌC HIỆU ( Nguyễn Trương Hiệu?, thường gọi là Cố Hương Hiệu), ở Đức Yên, Đức Thọ;
VE. NGUYỄN NGỌC LỘC (thường gọi là Cố Minh), ở Kẻ Đọng, Sơn Tiến, Hương Sơn.
Tác giả cũng mã hóa các thế hệ con cháu của 5 vị này.
Tôi kính đề nghị tác giả quyển Tộc Phả nên thống nhất các tên gọi và thứ tự của năm nhân vật này (và một số trường hợp khác trong số hậu duệ của các ngài nữa); năm nhân vật này được nhắc tới 3 lần tại các trang 18, 30 và 31, mà lại có những chi tiết không ăn khớp hoặc mâu thuẫn với nhau.
- Về thứ tự, thì theo nghiên cứu riêng cúa tôi, nên xếp Cố Nguyễn Ngọc Lộc vào vị trí em út, như tác giả đã làm tại trang 18 và 30, và như thế cần điều chỉnh thứ tự trên phả đồ tại trang 31, tại đó Bác Kính lại đặt Nguyễn Ngọc Hiệu vào vị trí em út!
- Về tên thường gọi của Cố Nguyễn Ngọc Lương chắc phải viết là “Cố Ký Lương”, chứ không phải “Cố Kỳ Lương”, bởi lẽ “Ký, Trương, Thông” là ba bậc vị vọng trong làng theo phẩm trật trên dưới, nghĩa là Ký cao hơn Trương, Trương cao hơn Thông. Và hình như Thông lại cao hơn Hương.— Tôi tìm thấy thông tin này trong tập sách in rônêô “Lịch sử Thọ Ninh” của CHIÊU HIỀN --- . Vậy trong số các Vị Tiền Bối của tôi, nhân vật có “chức vị” cao nhất là Cố Ký Lương; nhân vật có “chức vị” thấp hơn một bậc là Cố Trương Bàn, tức tằng tổ Trần Văn Bàn của tôi trong tộc phả Họ TRẦN ở Văn Hội và Thọ Ninh; “chức vị” thứ ba là Thông, thì thuộc về Cố Thông Mỹ, Cố ngoại của tôi tính từ phía Bà Thanh là Bà Ngoại của tôi; Ông Thông Dương (tức Vương Đình Trinh, em ruột Ông nội của tôi là Vương Đình Bá); và Ông Thông Hạnh, em ruột Ông Thanh (tức Trần Đình Vỹ, Ông ngoại của tôi), Ông Thông Hạnh là thân sinh của Chiêu Hiền. Có ít nhất hai nhân vật mang “chức vị” Hương, là Cố Hương Hiệu (tức Nguyễn Ngọc Hiệu trên đây) và Ông Hương Thanh (tức Trần Dực, trưởng nam của Ông Bà Thanh, trong Tộc Phả Nguyễn Vị, trang 76-77).
Năm người con trên đây của Cao Tổ Nguyễn Vị được gọi là 5 Tằng Tổ, đứng đầu 5 “đời”, theo cách gọi của tác giả NGUYỄN VĂN KÍNH (x. Sđd, trang 6 và 19), nhưng thông thường người ta vẫn nói là đứng đầu 5 “chi” hoặc “ngành”, bởi lẽ, theo Từ Điển Hán Việt Từ Nguyên của BỬU KẾ, tái bản lần thứ nhất 2009, thì từ “chi” (với 4 nét) có nghĩa là nhánh sông, và thêm 4 nét nữa thì có nghĩa là cành cây – cả hai hình ảnh sông và cây đều được dùng làm biểu tượng cho một dòng họ hoặc dòng tộc.-- Truyền thống lâu đời ở Việt Nam phân biệt hai loại “chi” trong một dòng tộc: Chi Đại Tôn hoặc chi trưởng hay ngành trưởng, và chi Tiểu tôn hoặc chi thứ hay ngành thứ. Theo Từ Điển Tiếng Việt của Trung Tâm Từ Điển Học, Hà Nội 2010, trang 1295, mục từ “tộc trưởng”, thì “người đàn ông là trưởng của ngành trưởng một dòng họ” được gọi là “tộc trưởng” hoặc “trưởng tộc”. Theo định nghĩa này, tộc trưởng hiện nay của dòng họ NGUYỄN VỊ là Ông Nguyễn Trường Xuân (đang sinh sống tại Sàigòn). Trước ông Trường Xuân, thì tộc trưởng là Ông Nguyễn Quỳnh, cha của Ông Trường Xuân; trước Ông Nguyễn Quỳnh là Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, Ông Nội của ông Trường Xuân; và trước đó nữa là Ông Nguyễn Ngọc Mỹ, Cố Nội của Ông Trường Xuân (và của Ông Nguyễn Văn Kính, bào đệ của Ông Trường Xuân). Ông Nguyễn Ngọc Mỹ được gọi là Tằng Tổ, vì là Ông Tổ 4 đời của người lập phả, Nguyễn Văn Kính, và của bào huynh Nguyễn Trường Xuân, tộc trưởng hiện nay. Ông Nguyễn Vị được gọi là Cao Tổ, vì là Ông Tổ 5 đời của người lập phả. Đó là theo nghĩa hẹp. Còn theo nghĩa rộng, Cao Tổ là Ông Tổ cao nhất mà người ta biết được của một dòng tộc.
Trong “Tộc Phả Nguyễn Vị 2011”, tác giả dùng từ “chi” theo nghĩa hẹp hơn “đời”, và từ “cánh” theo nghĩa hẹp hơn “chi”, ví dụ: Đời Nguyễn Ngọc Mỹ, Chi Nguyễn Ngọc Quỳnh, Cánh Nguyễn Quỳnh. Tôi tôn trọng và sẵn sàng chấp nhận sáng kiến ấy như một quy ước giữa bà con chúng ta. Mặt khác, tôi thấy rằng tác giả NGUYỄN VĂN KÍNH, khi coi Bà Cụ Việt như Tằng Tổ của một “đời” trong dòng họ NGUYỄN VỊ, xem ra đã đi ngược lại với quan niệm cổ truyền, “vì thông thường khi lập gia phả (người ta) chỉ lập cánh nội tộc mà thôi”, một quan điểm phản ánh tư tưởng “trọng nam khinh nữ” (xem Sđd, trang 23, các số 5, 6, 7; và trang 25, số 10). Do đó, tôi hoan hỷ bày tỏ sự nhất trí với quan điểm của Bác Kính, dám làm một cuộc cách mạng tư tưởng, dứt khoát loại trừ chủ trương “trọng nam khinh nữ” đã một thời thống trị trong xã hội phong kiến ở Việt nam ta, chắc hẳn là do ảnh hưởng của Nho giáo. Bác Kính đã viết: “Lập gia phả là lập quan hệ họ tộc bên nam bên nữ đề huề và bình đẳng, chứ không bên trọng bên khinh” (x. Sđd, trang 72). Quan điểm tôn trọng sự “đề huề và bình đẳng” giữa nam và nữ là rất phù hợp với quan điểm của chính Chúa Giêsu trong Phúc Âm, và của Tổ Chức Liên Hợp Quốc trong Tuyên ngôn về nhân quyền. Vì xác tín như vậy, nên trong lá thư điện tử gửi cho Bác Nguyễn Văn Kính ngày 08-12-2011, tôi đã mạo muội đề nghị bổ sung – hoặc nới rộng -- Tộc Phả Nguyễn Vị bằng cách ghi thêm thông tin – đầy đủ theo khả năng cho phép -- về 4 chi thứ trên đây vào sau chi Đại tôn hoặc Ngành trưởng, là “đời” Cố Thông Mỹ, tức Tằng Tổ Nguyễn Ngọc Mỹ. Tôi trân trọng nhìn nhận Bà Cụ Việt là một thành viên bình đẳng trong danh sách 5 người con của Cao Tổ NGUYỄN VỊ. Đồng thời tôi cũng nhìn nhận cách trân trọng vị trí danh dự của chi (tức “đời”) Đại tôn và vị Tộc trưởng của dòng họ Nguyễn Vị.
Chính trong quan điểm đó, tôi sử dụng quyển Tộc Phả Nguyễn Vị 2011, là một tài liệu rất quý, và những thông tin khác do tôi thu thập được qua tìm hiểu riêng, để ghi lại sau đây danh sách những người trong số hậu duệ của Cao Tổ NGUYỄN VỊ đã được Chúa kêu gọi làm Linh mục, Tu sĩ và Nữ tu. Tôi trình bày theo thứ tự thời gian, nghĩa là vị Linh mục hoặc Tu sĩ nào có khoảng cách thế hệ gần hơn với Cao Tổ NGUYỄN VỊ, sẽ được nhắc tên trước.
I.- Hai cháu ngoại của Cao Tổ NGUYỄN VỊ làm Linh mục triều trong Giáo phận Vinh, là:
- Cha PHÚC
- và Cha BÁ.
Các ngài là hai con trai của Ông Bà Cụ Việt.
Mong rằng hậu duệ của Ông Bà Cụ Việt có thể cung cấp thêm thông tin về chính hai Ông Bà Cố, mà người Nghệ Tĩnh ta gọi là “Ông Bà Cụ”, và về con cái cháu chắt của các ngài, đặc biệt về hai vị Linh mục là Cha PHÚC và Cha BÁ mà tôi phải gọi bằng Ông Cậu, vì mẹ tôi gọi các ngài bằng Cậu họ.(Mong được biết: tên thánh, tên gọi đầy đủ, năm sinh, năm chịu chức LM, nơi hoạt động, và năm mất của hai vị LM này).
II.- Một chắt nội của Cao Tổ NGUYỄN VỊ làm Nữ tu, là:
Xơ NGUYỄN THỊ LAN, ái nữ của Ông Bà Cụ NGUYỄN NGỌC HÒA, cháu nội của Cố NGUYỄN NGỌC HIỆU và chắt nội của Can Cao Tổ NGUYỄN VỊ. Tôi chỉ biết Xơ LAN sống ở Pháp, mà không biết Xơ tu trong Dòng nào và có những hoạt động nào…-- Rất mong nhận được thêm thông tin về Xơ LAN mà tôi phải gọi bằng “Dì LAN”.
III.-“Đời” Đại tôn Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ có những thành viên nào làm Linh mục, Tu sĩ và Nữ tu?
Tôi chưa tìm được những Linh mục và tu sĩ trong hai “đời” Tiểu tôn Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC LƯƠNG và Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC LỘC. Nhưng “Đời” Đại tôn Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ (tức Cố Thông Mỹ, Cố ngoại của tôi) thì có khá nhiều thành viên đi tu, thuộc nhiều thế hệ khác nhau và nhiều Dòng tu khác nhau.
A.- Trước tiên cần làm rõ một số khía cạnh trong Gia phả của Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ:
Quyển Tộc Phả NGUYỄN VỊ cho biết: Cố Thông Mỹ, tức Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ (VA), có 2 đời vợ và 8 người con (3 trai 5 gái), với sự ức đoán rằng: Bà trước chết sớm, nên cả 8 người con đều là của Bà sau. Rất tiếc Tộc Phả không biết được tên và gốc gác của hai Bà. Theo tìm hiểu riêng của tôi, thì Bà sau đến từ Nhượng Bạn, Hà Tĩnh. Sau đây là 8 người con của Cố Thông Mỹ (tên con ruột của Cố được viết toàn bộ bằng chữ hoa và ghi trước tên con dâu hoặc rể):
V A1: NGUYỄN NGỌC QUỲNH + Nguyễn Thị Chín, ở Cầu Khóng, Đức Yên;
V A2: NGUYỄN THỊ Thanh (?) hay LUÂN (?) + Trần Đình Vỹ (tức Ông Thanh), ở Thọ Ninh;
V A3: NGUYỄN THỊ (LUÂN?) + Nguyễn Ái, ở Nghĩa Yên, Đức Yên;
V A4: NGUYỄN THỊ LÝ + Nguyễn Thung, ở Nghĩa Yên, Đức Yên;
V A5: NGUYỄN NGỌC LAN + Đậu Thị Bảy, ở Cầu Khóng, Đức Yên;
V A6: NGUYỄN NGỌC THU + Thân Thị Nhân, ở Cầu Khóng, Đức yên;
V A7: NGUYỄN THỊ QUÝ + Nguyễn Tịnh, ở Song Ngọc, Quỳnh Lưu, Nghệ An;
V A8: NGUYỄN THỊ HÓA + Đậu Xuân Thong, ở Yên Phú, Thọ Ninh.
Mọi người thấy đó: tên gọi NGUYỄN THỊ LUÂN được gán, với chấm hỏi (?), cho hai người con gái (mã số V A2 và V A3) của Cố Thông Mỹ. Lý do như sau:
a/ Giấy chứng nhận Rửa Tội của Ông Trần Đình Sâm, thứ nam của Ông Bà Thanh, do Cha Giuse NGÔ XUÂN LUYỆN, Quản xứ Thọ Ninh, ký và đóng triện ngày 28/4/87 (=1987) chứng nhận:
“Ông Phêrô Trần Đình Sâm, sinh ngày 20/12/1917, Cha là Phêrô Trần Đình Vỹ, Mẹ là Maria Nguyễn Thị Luân, là người sinh ra tại Thọ Ninh và rửa tội tại nhà thờ xứ Thọ Ninh theo như điều tra sổ rửa tội của xứ Thọ Ninh”. Chính Bà Trần Thị Kim Chi, thứ nữ của Ông Trần Đình Sâm, cung cấp cho tôi bản photocopy giấy Chứng Nhận này, kèm thêm bản photocopy Giấy Khai Sinh của Ông Trần Đình Sâm, được Ủy Ban Nhân Dân Xã Đức Ninh “nhận thực sao y bản chính”, do Ông Phạm trọng Hợp ký và đóng triện ngày 28 tháng 4 năm 1987, trong đó ghi rõ: Trần Đình Sâm sinh ngày 20-12-1917, người cha: Trần Đình Vỹ (chết), người mẹ: Nguyễn Thị Luân (chết).
b/ Nhưng bà Nguyễn Thị Bát, một người con gái của Ông NGUYỄN NGỌC THU – Bà Bát là vợ của Ông Cao Văn Nhung --, kể với người lập phả rằng: các con gái của Cố Thông Mỹ có tên là LUÂN, LÝ, QUÝ, HÓA. Người lập phả lập luận thế này: HÓA là tên cuối cùng thì phải được gán cho con gái út của Cố Thông Mỹ. Đó là vợ của Ông Đậu Xuân Thong, thường gọi là Ông Khôi Thong, với tên người con trai (duy nhất) là Khôi; do đó bà NGUYỄN THỊ HÓA thường được gọi là “Bà Khôi Thong”. Và người lập phả gán bốn tên gọi HÓA, QUÝ, LÝ, LUÂN cho 4 người con gái của Cố Thông Mỹ, đi từ dưới lên. Như thế thì trưởng nữ của Cố Thông Mỹ đành phải tạm mang tên của chồng là Ông Thanh, mà người lập phả gọi là Trần Thanh, và Bà được mọi người gọi là Bà Thanh (xem Sđd, trang 30).
Tôi trình bày cách khách quan hai chứng cứ như trên để mọi người rộng đường suy nghĩ và nghiên cứu thêm. Tôi có nói với Bác Nguyễn Văn Kính, người lập phả rằng: “ Bản thân tôi tạm thời tin vào giấy Chứng Nhận Rửa Tội của Ông Trần Đình Sâm cho đến khi có ai đó chứng minh điều ngược lại một cách thuyết phục”.
2. Đề nghị:
Vậy trong lúc chờ đợi, tôi đề nghị: khoan gán dứt khoát tên gọi NGUYỄN THỊ LUÂN cho ai cả, và tạm thời gọi trưởng nữ của Cố Thông Mỹ là Bà Thanh, và vợ của Ông Nguyễn Ái là Bà Ái (hoặc Bà Cụ Ái, vì Bà có một con trai làm Linh muc là Cha Dụ).
Thực ra, tôi chỉ được đọc quyển Tộc Phả Nguyễn Vị sau khi chương trình cải táng Cố Ông, Cố Bà TRƯƠNG BÀN (= TrẦn Văn Bàn) và Ông Bà THANH từ Thọ Ninh vào Thánh Mẫu, Đàlạt được hoàn thành mỹ mãn ngày 05/12/2011, nên tôi đã cho ghi trên tấm bia mộ: nhũ danh của Bà Thanh là NGUYỄN THỊ LUÂN, dựa theo giấy Chứng Nhận Rửa Tội của Ông Trần Đình Sâm, Cậu ruột của tôi đang sống tại Mỹ. Vậy, nếu Dì Nguyễn Thị Bát (Nhung) của tôi không nhớ ra một tên gọi thứ năm cho đủ số 5 người con gái của Cố Thông Mỹ, thì có lẽ nên gọi Bà Thanh là bà NGUYỄN THỊ LUÂN-Chị, và Bà Cụ Ái là Bà NGUYỄN THỊ LUÂN-Em. – Chắc hai Bà trên Thiên Đàng đang mỉm cười, nhưng không cười chúng ta đâu, các Bà cùng cười vui với chúng ta đó thôi…!
B.- Bây giờ xin trở về lại với đề tài.
1. Dựa vào hai Phả đồ tại trang 35 và trang 81, tôi tìm thấy một chắt ngoại của Cao Tổ NGUYỄN VỊ làm Linh mục triều, là Cha DỤ (Tộc phả trang 35 ghi là Nguyễn DỤ).
Cha Nguyễn DỤ là người con thứ ba của Bà Cụ Ái (được Tộc phả gọi là NGUYỄN THỊ LUÂN, mà tôi đã đề nghị gọi là NGUYỄN THỊ LUÂN-Em, để phân biệt với Bà Thanh là NGUYỄN THỊ LUÂN-Chị). Bà NGUYỄN THỊ LUÂN-Em kết hôn với Ông Nguyễn Ái, tạm gọi là Nguyễn Ái -Cha (để phân biệt với Nguyễn Ái-Con là anh ruột của Cha Dụ), sinh được 6 người con (3 gái 3 trai). Hiện có 3 người con của Ông Nguyễn Ái-Con đang sống tại Thánh Mẫu, Đàlạt. Hy vọng họ sẽ cung cấp thêm thông tin về Cha Nguyễn Dụ là chú ruột của họ.
2. Một chút ngoại của Cao Tổ NGUYỄN VỊ làm Linh mục Dòng, là:
-Cha CAO VĨNH PHÚC, Dòng Chúa Cứu Thế, hiện sống tại Mỹ.
Theo hai Phả đồ tại trang 109 và 117, Cha Phúc là thứ 5 trong 8 người con (6 trai 2 gái) của Bà NGUYỄN THỊ BÁT và Ông Cao Văn Nhung.
Bà NGUYỄN THỊ BÁT (VA6.6) là con thứ 6 trong 7 người con của Ông NGUYỄN NGỌC THU và Bà Thân Thị Nhân. Ông NGUYỄN NGỌC THU (VA6) là con thứ 6 (trong 8 người con) của Cố Thông Mỹ (VA=Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ).
Như vậy Cha Cao Vĩnh Phúc là cháu ngoại của Ông Thu, chắt ngoại của Cố Thông Mỹ và chút ngoại của Cao Tổ NGUYỄN VỊ.
3. Dựa theo hai Phả đồ tại trang 35 và 77, cọng thêm những thông tin riêng, tôi xin giới thiêu hai chút ngoại khác của Cao Tổ NGUYỄN VỊ làm Linh mục Dòng, là:
-Cha Duy Ân VƯƠNG ĐÌNH LÂM, Viện Phụ Dòng Xitô Phước Sơn, sinh 1930; Lm từ 1958, hiện sống tại Mỹ;
-Cha Phi Khanh VƯƠNG ĐÌNH KHỞI, Dòng Anh em hèn mọn (=Phanxicô), sinh 1939, Lm từ 1969, hiện sống tại Du Sinh, Đàlạt.
Hai LM này là con của Bà Trần Thị Tam (VA2.3) và Ông Vương Đình Thông. Bà Trần Thị Tam là người con thứ ba của Ông Bà Thanh. Bà Thanh (VA2 = Nguyễn Thị Luân-Chị) là con thứ hai của Cố Thông Mỹ (VA). Như vậy hai LM Lâm và Khởi là cháu ngoại của Bà Thanh, chắt ngoại của Cố Thông Mỹ (=Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ) và chút ngoại của Cao Tổ NGUYỄN VỊ.
4. Một chít ngoại của Cao Tổ NGUYỄN VỊ làm Linh mục Dòng, là:
-Cha PHẠM BÁ ĐÌNH, thuộc “Chi” NGUYỄN NGỌC QUỲNH (VA1), “Cánh” NGUYỄN THỊ TÁM (VA1.6) theo cách gọi của người lập phả. Vì Cha Phạm Bá Đình thuộc “Chi” Đại Tôn NGUYỄN NGỌC QUỲNH bên trong “Đời” Đại Tôn NGUYỄN NGỌC MỸ, nên được nhắc tên trước những chít khác. Hai Phả đồ tại trang 35 và 39 cho thấy:
-Cao Tổ NGUYỄN VỊ (V), sinh ra Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ (A);
-Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ sinh ra NGUYỄN NGỌC QUỲNH (VA1);
-NGUYỄN NGỌC QUỲNH +Lê Thị Chín (NB: tại trang 39 ghi Lê Thị Chín, nhưng tại trang 2 lại ghi: Nguyễn Thị Chín!) sinh ra NGUYỄN QUỲNH (VA1.1), NGUYỄN NGỌC HỒ (VA1.2), NGUYỄN THỊ NGỤ, tức là Bà Thuần (VA1.3), NGUYỄN TRƯỜNG SINH, Đại tá Quân Đội Nhân Dân VN về hưu (VA1.4), NGUYỄN NGỌC LẠC (VA1.5), NGUYỄN THỊ TÁM (VA1.6).
Nên biết: tác giả Tộc Phả gọi Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ (VA) là người đứng đầu một “Đời”, mà theo cách gọi phổ biến là một “Chi” hay “Ngành”. Đây chính là Đời Đại Tôn, hoặc Chi Trưởng, Ngành Trưởng của Dòng Tộc NGUYỄN VỊ. Và tác giả gọi NGUYỄN NGỌC QUỲNH (VA1) là người đứng đầu một “Chi” (theo nghĩa quy ước trong nội bộ Dòng Tộc chúng ta, tức là “Chi” thấp hơn “Đời”, nhưng là “Chi” Đại Tôn), và gọi NGUYỄN QUỲNH (VA1.1) là người đứng đầu một “Cánh” (nhưng là “cánh” Đại Tôn thấp hơn “Chi”). Dựa vào hai Phả Đồ của Tộc Phả, trang 39 và 73, tôi tính ra nguồn ngọn như sau:
Phạm Bá Đình là: 1)- cháu ngoại của Bà NGUYỄN THỊ TÁM (VA1.6) [Bà Tám là em gái út của Ông NGUYỄN QUỲNH (VA1.1) và là con gái út của Ông NGUYỄN NGỌC QUỲNH (VA1)],
Phạm Bá Đình là: 2)- chắt ngoại của Ông NGUYỄN NGỌC QUỲNH (VA1),
3)- chút ngoại của Cố THÔNG MỸ [= Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ (VA)],
4)- chít ngoại của Cao Tổ NGUYÊN VỊ (V).
Phạm Bá Đình là cháu ngoại của Bà NGUYỄN THỊ TÁM như sau:
Bà NGUYỄN THỊ TÁM kết hôn với Ông Hồ Sĩ Hà (nên được gọi là Bà Hà), sinh ra Hồ Thị Kim Thanh (chị cả của 2 em gái và 1 em trai). Hồ Thị Kim Thanh kết hôn với Phạm Đình Việt, sinh ra 3 gái 2 trai: Phạm Thị Mỹ Linh, Phạm Bá Đình, Phạm Thị Kim Nhu (lấy chồng người Pháp), Phạm Thị Huyền, Phạm Đình Thuyên. Để cho mọi người thấy tính chất “dây mơ rễ má” của quan hệ họ hàng chồng chéo vô tận, tôi xin nhắc: Ông Cụ (gọi theo kiểu Bắc là “Ông Cố”) Phạm Đình Việt là con trai của Bà Vương Thị Bảy (=Bà Bộ Lam), em gái của Ông Cụ Vương Đình Thông, trong Dòng Họ Vương Đình ở Thọ Ninh. Do đó LM Phạm Bá Đình gọi Viện Phụ Vương Đình Lâm là bác họ.
5. Những chít ngoại khác của Cao Tổ NGUYỄN VỊ trong ba “Chi” Tiểu tôn: Bà Thanh (=NGUYỄN THỊ LUÂN-Chị), Bà NGUYỄN THỊ LÝ (=Bà Thung), và Bà NGUYỄN THỊ HÓA (=Bà Khôi Thong).
5.1. Trong “Chi” Bà Thanh, “cánh” Ông Hương Thanh (=Trần Dực), có:
Thầy Giuse TRẦN ĐÌNH PHI, Dòng Sư Huynh La-san, đã khấn trọn đời và đang sống tại Sàigòn.
Thầy Phi là trưởng nam của Ông Trần Đình Hiên.
Ông Trần Đình Hiên là thứ nam của Ông Hương Thanh.
Ông Hương Thanh là trưởng nam của Ông Bà Thanh (=Trần Đình Vỹ+NGUYỄN THỊ LUÂN-Chị).
Như vậy, Thầy Phi là:
Cháu nội của Ông Hương Thanh,
Chắt nội của Bà Thanh,
Chút ngoại của Cố Thông Mỹ (=Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ),
Chít ngoại của Cao Tổ NGUYỄN VỊ.
5.2 Trong “Chi” Bà Thanh, “Cánh” bà Trần Thị Tứ (tức Bà Đức), có:
Xơ Têrêxa NGUYỄN THỊ MINH LƯƠNG, Dòng Mến Thánh Giá Đàlạt, đã khấn trọn đời, hiện làm Phụ trách cộng đoàn MTG Đàlat tại Đơn Dương.
Xơ Lương là ái nữ của Ông Nguyễn Ngọc Anh và Bà Cao Thị Liên,
Ông Nguyễn Ngọc Anh là thứ nam của Bà Đức (Trần Thị Tứ + Nguyễn Đức)
Bà Đức (Trần Thị Tứ) là thứ nữ của Bà Thanh.
Như vậy, Xơ Minh Lương là:
Cháu nội của Bà Đức,
Chắt ngoại của Bà Thanh,
Chút ngoại của Cố Thông Mỹ,
Chít ngoại của Cao Tổ NGUYỄN VỊ.
5.3 Trong “Chi” Bà NGUYỄN THỊ LÝ (VA4, tức Bà Thung), “Cánh” Bà NGUYỄN THỊ YẾN (=Yên), có:
Xơ Maria NGUYỄN THỊ BÍCH NGHĨA, Dòng Mến Thánh Giá Đàlạt, đã khấn trọn đời, hiện ở Bảo Lộc.
Xơ Bích Nghĩa là ái nữ của Ông Nguyễn Văn Ánh (thường gọi là Anh, tại Thánh Mẫu, Đàlạt)) và Bà Cao Thị Lưu.
Ông Ánh (=Anh) là trưởng nam của Bà Nguyễn Thị Yến (thường gọi là Yên) và Ông Nguyễn Ninh.
Bà Yên là con gái của Bà Thung (NGUYỄN THỊ LÝ +Nguyễn Thung).
Như Vậy Xơ Bích NGHĨA là:
Cháu nội của Bà Yên,
Chắt ngoại của Bà Thung,
Chút ngoại của Cố Thông Mỹ,
Chít ngoại của Cao Tổ NGUYỄN VỊ.
5.4 Trong “Chi” Bà NGUYỄN THỊ HÓA (VA8, tức Bà Khôi Thong), “Cánh” Đậu Dương Khanh (có tên gọi khác nữa là Ông Khôi, VA8.2, hiện sống tại Mỹ), có 1 Nữ tu và 1 Tu sĩ. Đó là:
a/ Xơ Têrêxa TRẦN THỊ KIM DUNG, Dòng Nữ Vương Hòa Bình ở Banmêthuột, đã khấn trọn đời, đang phục vụ tại BMT.
Xơ KIM DUNG là ái nữ của Bà Đậu Thị Kim Hà và Ông Trần Văn Huệ (Kim Hà là thứ 2 trong 8 người con của Ông Đậu Dương Khanh và Bà Nguyễn Thị Vân Nga).
Như Vậy, Xơ KIM DUNG là:
Cháu ngoại của Ông Đậu Dương Khanh (=Ông Khôi),
Chắt ngoại của Bà Khôi Thong (=NGUYỄN THỊ HÓA),
Chút ngoại của Cố Thông Mỹ (= Tằng Tổ Nguyễn Ngọc Mỹ),
Chít ngoại của Cao Tổ NGUYỄN VỊ.
b/ Tu sĩ Gioan Baotixita MAI TÂM, Dòng Lời Chúa ở Bình Dương (Phú Cường).
Thầy MAI TÂM là trưởng nam của Bà Đậu Thị Kim Hồng và Ông Mai Hữu Thiềng (Kim Hồng là thứ 4 trong 8 người con của Ông Bà Đậu Dương Khanh và Nguyễn Thị Vân Nga).
Thầy Mai Tâm đang du học tại Nhật Bản, và dự kiến sẽ chịu chức LM trong năm 2012.
Như vậy, Thầy MAI TÂM là:
Cháu ngoại của Ông Đậu Dương Khanh,
Chắt ngoại của Bà Khôi Thong (=NGUYỄN THỊ HÓA),
Chút ngoại của Cố Thông Mỹ (=Tằng Tổ NGUYỄN NGỌC MỸ),
Chít ngoại của Cao Tổ NGUYỄN VỊ.
[NB: Thông tin về hai chắt ngoại của Bà Khôi Thong ( NGUYỄN THỊ HÓA) đi tu, do Bà Vương Thị Tuyết, em gái của tôi đang sống tại Mỹ, thu thập trực tiếp từ miệng song thân của hai Nữ tu-Tu sĩ nêu trên, x. Email Bà Tuyết gửi cho cha Khởi, November 14, 2011].
***
Tổng kết
A.- Đến nay (cuối năm 2011), trong Dòng Tộc của Cao Tổ NGUYỄN VỊ, có tất cả 13 người [cháu, chắt, chút, chít nội (1), ngoại (12)] dâng mình cho Chúa và Giáo Hội. Đó là:
7 Linh mục , gồm:
3 LM triều là Cha PHÚC, Cha BÁ, Cha Nguyễn DỤ thuộc Giáo phân Vinh;
4 LM Dòng là Cha Cao Vĩnh PHÚC, Dòng Chúa Cứu Thế; Cha Vương Đình LÂM, Dòng Xitô Phước Sơn; Cha Vương Đình KHỞI, Dòng Anh em hèn mọn (Phanxicô); Cha Phạm Bá ĐÌNH, Dòng Anh em hèn mọn;
1 Tu sĩ sắp làm Linh mục Dòng là Thầy Mai TÂM, Dòng Lời Chúa;
1 tu sĩ ,Thầy Trần Đình PHI, Dòng Sư Huynh Lasan;
4 Nữ tu: Xơ Nguyễn Thị LAN (Dòng ?); Xơ Nguyễn Thị Minh LƯƠNG, Dòng MTG Đàlat; Xơ Trần Thị Bích NGHĨA, Dòng MTG Đàlạt; Xơ Trần Thị Kim DUNG, Dòng NVHB.
B.- Từ trước đến nay chúng ta có rất ít thông tin về “Chi” NGUYỄN THỊ QUÝ (VA7), tức Bà Cụ Tịnh, kết hôn với Ông Nguyễn Tịnh ở Song Ngọc, Nghệ an. Trong Tộc phả NGUYỄN VỊ, trang 122-123, tác giả Nguyễn Văn Kính chỉ ghi tên 4 người con của Ông Bà Cụ Tịnh. Tôi may mắn được biết 2 người cháu ruột của Ông Cụ Nguyễn Tịnh, là Linh mục nhạc sĩ Nguyễn Xuân Thảo, và Linh mục Quản xứ Nguyễn Công Minh, cả hai anh em ruột này là linh mục Dòng Phanxicô, gọi Ông Cụ Tịnh là cậu ruột. Hai vị này cho tôi biết: thân mẫu của hai vị là em ruột của Ông Cụ Tịnh, nên hai vị gọi Bà Cụ Tịnh (=NGUYỄN THỊ QUÝ) là Mự (=Mợ). Ông Cụ Tịnh có một em gái nữa kết hôn với Ông Lê Ngọc Thưởng ở Yên Phú. Chính hai Cha Xuân Thảo và Công Minh đã giúp tôi điều chỉnh và bổ sung Phả đồ tại trang 123 của tác giả Nguyễn Văn Kính như sau:
Bà NGUYỄN THỊ QUÝ và Ông Nguyễn Tịnh có được 6 người con (3 trai 3 gái):
NGUYỄN TẦN (hiện ở Mỹ); NGUYỄN THỊ TƯỜNG (thay vì Nguyễn Thị Bường ghi trong Tộc phả) hiện ở Bắc; NGUYỄN THỊ LỄ sống với chồng con tại Sàigòn; NGUYỄN THỊ NGHĨA (hiện ở Mỹ) –Tộc phả chỉ ghi bốn người này, và xếp NGHĨA trước LỄ --. Ngoài ra Bà Cụ Tịnh còn có một con trai chết lúc nhỏ là NGUYỄN TRÍ, và con trai út NGUYỄN TÍN, sĩ quan quân đội VNCH, hy sinh trước 1975, hiện vợ con đang sống tại Thủ Đức, gần tu viện Phanxicô.
Tôi hy vọng sẽ có thêm thông tin về hậu duệ của Bà NGUYỄN THỊ QUÝ để báo cáo với Bác Kính và bà con.
Xin kính trình tất cả bà con để kính tường, để cảm tạ Chúa, để tưởng nhớ và biết ơn các đấng sinh thành. Xin bà con vui lòng điều chỉnh những sai lầm và bổ sung những thiếu sót trong bài trình bày trên đây.
Cuối cùng xin kính chúc bà con nhiều niềm vui thánh thiện trong Mùa Giáng Sinh và được Chúa ban bình an và dồi dào sức khỏe trong Năm Mới 2012.
Đàlạt, ngày 18-12-2011
Phi Khanh Vương Đình Khởi, ofm