Tâm Tình Của Ông Vương Đình Chữ Về Thầy-Mẹ
THẦY MẸ
Vương Đình Chữ
1. Cục vàng mẹ choa
Tôi sinh ngày 07-12-1946. Đó là trên giấy Thế vì khai sinh và các giấy tờ hành chánh làm ở Miền Nam, sau di cư 54. Về mở sổ rửa tội ở giáo xứ, ngày chào đời chính xác là 07-12-1945. Một tuổi Trời cho này là do Thầy tôi, khi di cư vào Nam đã “trẻ hóa” các anh em tôi: Cô Ngọc, Bác Tuyết, Bác Khởi, và tôi đều được trẻ thêm một tuổi. Lý do là nhằm cho phù hợp với độ tuổi đi học. Chỉ có Bác Phương lại tự ý làm cho mình “già trước tuổi”: sinh năm 1936 mà lại khai năm 1934, lý do là để đủ tuổi đi làm ở phòng Văn hóa Thông tin Diên Khánh. Bác Phương lại có sáng kiến dung hòa năm thật, năm gỉa này bằng cách mừng Thượng thọ Bát tuần (mà Bác hay gọi là tám bó) vào năm 2015, tháng 7. Chỉ có Bác Lâm, chắc do căn tu từ thuở đời đời, giữ y nguyên sự thật, sinh năm 1930. Chỉ trong mấy hàng này mà bạn đã biết hết anh, chị, em tôi, cứ đọc ngược trở lên là đúng thứ tự: Bác Lâm, Bác Phương, Bác Khởi, Bác Tuyết, Chú Chữ và Út Ngọc.
Theo quan niệm xưa, gia đình có 4 trai 2 gái được xem là tốt, gọi là “Tứ quý, nhị kiều”. Nhân dịp mừng thọ Mẹ bát tuần, Thầy Nguyễn Khắc Dương làm một bài thơ tặng Mẹ, cũng nói đến hai con số 4 và 2 này nhưng không theo nghĩa giới tính mà theo ơn gọi: tu trì hay tại thế:
“Hai đóa hoa thơm tô thắm đạo
“Bốn chùm quả ngọt điểm tô đời”.

Đó là chỉ nói đến những người còn sống (2017) vì tôi còn người anh thứ hai (sau Bác Lâm) là Bác Chương: Bác sinh năm 1932 và mất năm 1954 khi đang là thầy giảng bốn chức, người anh thứ ba là anh Kỳ, sinh năm 1934, mất năm 1939, và người anh sát trên tôi là anh Sum, mất khi mới một tuổi (1942-1943). Như vậy là cũng gần đủ một chục kinh Mân côi mà dãy tên đọc ra, nghe cũng thuận tai: Lâm – Chương – Kỳ – Phương – Khởi – Tuyết – Sum – Chữ - Ngọc. Tất cả chúng tôi đều sinh ra tại làng Thọ Ninh, cũng là tên một giáo xứ, nằm bên tả ngạn sông La, nay thuộc xã Đức Minh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Thú thật là tôi nhớ rất ít về tuổi thơ, phần lớn điều nói ở đây là do Mẹ kể lại và tôi “túm gọn”: năm 1945, âm lịch gọi là năm Ất Dậu là năm xảy ra nạn đói khủng khiếp, làm chết hơn hai triệu người ở Miền Bắc và Miền Trung, cũng là năm Cách mạng Cộng sản thành công kèm theo sau là cuộc chiến 9 năm chống Pháp. Vừa đói vừa loạn lạc thì biết là khổ sở chừng nào! Nhưng anh em sống sót là do gia đình thuộc hạng khá giả, đủ ăn cầm hơi vượt qua lúc ngặt nghèo, chẳng những vậy, Mẹ và Bà Nội còn nấu cháo giúp người đói.
Tôi không đi học vì các trường đều đóng hết, có chăng là Thầy tôi, vốn là thầy giáo dạy ở trường Saint Joseph bên Nghĩa Yên, dạy vỡ lòng cho tôi, ở nhà. Điều còn nhớ mang máng là lúc khoảng 7-8 tuổi, được sang ở với Ông Bà Nội, nhà sát bên vì Thầy tôi được xem như là Trưởng Nam, được Ông Bà Nội cho một dãy nhà dọc, nối liền một nhà ngang và một nhà dọc là hai dãy dành cho Ông Bà và các chú các cô chưa lập gia đình. Công việc của tôi là chăn một con dê cái. Ông Nội bị bệnh dạ dày, nuôi một con dê cái để vắt sữa, hằng ngày uống để lót cái bao tử, cho nó yên. Mỗi sáng, tôi dẫn nó đi dọc các đường làng để nó ăn các loại lá cây bà con trồng làm hàng rào, nhiều nhất là cây chè tàu. Tuổi thơ tôi giống y như câu đồng dao: “a, bê, xê, dắt dê đi ỉa”.
Nhưng tuổi thơ tôi nào đâu êm ả, chẳng phải do những đại sự như chiến tranh hay loạn lạc mà khởi đầu chỉ là một cái cục, nhỏ như hạt gạo. Nó nằm ở bên cổ phải. Khổ nỗi là hạt gạo này không nằm im. Nó ngày càng lớn lên, lúc bằng hạt bưởi, rồi bằng trái chanh, rồi bẳng quả cam. Nó làm cho cái đầu của tôi luôn hơi nghiêng về phía trái. Một dị tật, nỗi khổ cho tôi nhưng là niềm vui của lũ trẻ đồng lứa vì mỗi khi thấy tôi, chúng xúm lại chọc ghẹo, la lối “Chự cục, Chự cục” và đua nhau cười khoái trá. Dân quê Nghệ Tĩnh có khuynh hướng bỏ dấu ngã thành dấu nặng, nên tôi vừa mất chữ mà lại gánh thêm một cái cục.
Cảm giác bị bạn bè xúm lại chọc ghẹo, cộng thêm cái hạt ngày càng lớn, thành cái bướu, chắc chẳng dễ chịu gì. Tôi không nhớ có xảy ra đánh nhau lần nào chăng? Và nếu có thì chắc tôi cũng thua. Vậy hẳn chắc là ấm ức lắm, khóc và chạy về mách Mẹ. Mẹ ôm con, xoa đầu và bày cho một cách thế chống đỡ. Mẹ dặn: mỗi khi chúng bạn chọc ghẹo, con đừng bực mình và nói với chúng rằng “đây là cục vàng mẹ choa”. Tôi không nhớ phương thế này hiệu quả như thế nào nhưng điều quan trọng khám phá ra là đứa con dị tật này là một giá trị trong trái tim người Mẹ mà Mẹ sẵn sàng bảo vệ, ủi an. Ngày nay, nhìn lại, có thể có người cho rằng phương thế của Mẹ mang nặng dấu ấn của “phép thắng lợi tinh thần của chủ nghĩa A Q”, nhưng tôi không tin thế vì Mẹ làm gì biết đến Lỗ Tấn. Và nhất là phương thế này phát sinh từ tấm lòng nhân ái của Mẹ: Mẹ không chọn đáp trả bằng bạo lực nhưng chọn cách bảo vệ tôi bằng tình yêu nhân đôi. Con cám ơn Mẹ vì Mẹ đã gọi con là “cục vàng mẹ choa”.
May thay là thời cuộc đã giúp giải thoát tôi khỏi một tình thế khó chịu.
2. Lá thư cuối cùng của Thầy
Ngày 3-10-1969, Thầy viết một lá thư gửi gia đình anh chị Linh Tuyết, đây là thư cuối cùng của Thầy, nguyên văn như sau:
“ †
“Đức Bà an ủi kẻ âu lo – Cầu cho chúng tôi
“Các con và cháu yêu dấu,
“Vừa rồi cha Synh về có đem tin các con và các cháu được bình yên mạnh khỏe, thầy mẹ lấy làm mừng và hết lòng tạ ơn Chúa. Sau đó bà cụ đưa cho mẹ mười trái cau và nói là cau O Tuyết ở Bình Tuy, mẹ ăn cau đó lấy làm thú vị vì nó vừa mềm vừa ngọt lại không say, bà con đến chơi ăn cau đó ai cũng khen ngon. Mẹ nói: buồng cau không biết có bao nhiêu trái??
“Lễ Thánh Têrêxa, thầy mẹ đã làm tuần tam nhật cầu nguyện cho các con cách riêng. Nay thầy đem tin gia đình để các con được rõ: lâu nay mẹ bị chứng đau lưng rồi ran vào đau bụng. Vừa rồi anh Lâm đi Âu châu về biên thư mời thầy mẹ xuống chơi, thầy nói mẹ đi để đổi gió một thể may chi đỡ đau.Tiện dịp có O Minh xuống chú Mịch thăm ông Câu Báu, thế là 2 bà cùng đi xe hơi, xuống tới cậu Sâm, mẹ chuồi vào năm vì đau, hôm sau đi bác sĩ khám cho toa mua thuốc chích và uống đỡ rồi 2 bà xuống thăm cha Lâm. Xuống được một bữa thì O Minh trở về Xóm Chiếu còn mẹ ở lại 2 hôm để thầy dòng y tá chích cho và sau đó thầy ấy cho toa, cân 6 thang thuốc bắc đưa về uống (thầy dòng vừa y tá tây y vừa ông lang đông y). Trở lại Xóm Chiếu và hôm nữa rồi 2 bà về Đà Lạt. Về đến nhà, mẹ lại chuồi vô nằm, kêu nước nóng vì: mỗi lần đau mà ắp nước nóng là bớt liền. Về đây, mẹ uống thuốc bắc thầy dòng 3 thang đầu thấy dễ chịu, 3 thang sau (toa khác) thì xông lên đau đầu khó chịu đành phải bỏ để quay lại mua thuốc tây uống và chích theo toa bác sĩ mà cũng chưa có kết quả rõ ràng; mỗi lần mẹ bị đau thì cảm thấy mệt và đoản sức lắm.
“Nghe nói Tuyết đã gần sinh mà mẹ bị đau yếu nên lần này không xuống với các con các cháu được. Mẹ dặn các con liệu mà đi sinh ở nhà hộ sinh có bảo đảm chứ đừng chủ quan là đã đôi ba lần sinh mà coi thường, chứ việc sinh nở là rất quan hệ…sai một ly đi một dặm. Mệ Hiên vừa rồi cứ đến chiều là xuống nhà thương vì sợ đêm hôm mà chuyển sinh thì không đi được vì quá giờ giới nghiêm mà ở Thánh Mẫu thì không có người hộ sinh. Đi phòng hờ như vậy đã 10 ngày thấy chưa sinh, đến hôm thứ 11 ở nhà 1 bữa thì lại sinh! Bởi không có người đỡ nên nay sinh đau yếu, đi ra nhà thương thì bác sĩ khám và nói có lẽ phải mổ, nay còn phải ở bệnh viện chưa biết đến bao giờ. Thấy như vậy, mẹ càng dặn các con.
“Có lẽ trước đây các con đã được tin em Chữ đã đậu cả 2 chứng chỉ mà một cái đậu đầu (đậu bình thứ), 1 cái đậu thứ 6. Sau đó, em đi trại Lam Sơn thụ huấn quân sự 1 tháng, trở về sụt mất mấy ký. Nay đang dự lớp học tập về ơn kêu gọi tại Biệt thự Thánh Tâm Đà Lạt, trong 3 tuần lễ do các cha Cứu Thế tổ chức cho gần 50 đệ tử như em Chữ (dồn lại 3 lớp). Các chú ở rải rác từ Bến Hải đến Cà Mau mà ai nấy đều hưởng ứng kể cả một số về đã đi làm công Mỹ mỗi tháng mấy chục ngàn mà cũng vất đó về dự lớp học tập này. Lớp học này sẽ mãn vào ngày 9-10-69
“Em Ngọc thì kỳ 2 cũng rớt luôn, kể ra năm nay em đi lại lo giấy tờ thành ra bỏ học mà không đậu, thầy mẹ cũng chẳng phàn nàn, em đã xuống anh Lâm để lo giấy tờ tiếp. Nếu không có chi trở ngại thì rồi đây, em Chữ cũng sẽ xuống thăm anh Lâm ít bữa rồi nếu em Ngọc còn phải chờ đợi thì có lẽ 2 anh em kéo nhau đi Bình Tuy chơi ăn cá ít bữa và nhất là đi thăm anh chị và các cháu và cho Ngọc biết Bình Tuy.
“Nghe nói các con sắp xây nhà bếp, trên này thầy mẹ cũng sắp sửa dợ nhà cũ để cho thợ xây nhà mới

(trang đầu và trang cuối lá thư)
“Vừa rồi thầy mẹ có được thư ông bà và chú Lương đem tin ông bà cũng khá khỏe, bà đã lành mụt, nay đã cố gắng đi nhà thờ được. O Cửu rày đau yếu hoài, họ hàng ngoài đó nói chung cũng được thường thường, số thuốc bổ và 1 ký sợi nylon đan lưới anh Khởi gửi về biếu chú, chú đã nhận được. Ông bà có đem tin có người anh của Linh ở Thanh Dạ có vào chơi thăm ông bà, chú Lương để nhận họ thông gia rồi ông tặng anh ta tấm hình màu thầy chụp với các con các cháu ở Bình Tuy mà O Linh gửi về ông bà trước đây. Nghe nói anh ta lấy làm sung sướng và mừng rỡ khi trông thấy ảnh đó và xin mang về nhà bà thân mẫu và họ hàng biết. Nguyên văn thư nói đến bà thân mẫu mà thôi thì có thể đoán rằng ông thân sinh đã khuất chăng? Các con nên xin lễ
“Bấy nhiêu thầy mẹ âu yếm chúc các con và các cháu luôn mạnh khỏe an vui trong ơn nghĩa thánh và cầu nguyện nhiều cho gia đình thầy mẹ, đặc biệt cho mẹ trong hoàn cản đau yếu. Cho thầy mẹ gửi lời hỏi thăm bác Khai và ông bà bên cạnh
“Trông tin các con
Thánh Mẫu ngày 3/10/69. Joseph Thông”
Vài điều cảm nhận khi đọc lại thư này:
Lòng đạo đức của Thầy: Thầy có thói quen vẽ một dấu Thánh giá ỡ trên đầu và ở giữa tờ giấy, như một tuyên xưng đức tin và kèm theo lời cầu nguyện Đức Mẹ đầu thư. Ở đây là cầu nguyện với Đức Mẹ dưới tước hiệu “Đức Bà an ủi kẻ âu lo”. Thầy cũng hay cầu nguyện với “Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành”. Còn Thánh Giuse là bổn mạng của Thầy nên Thầy có lòng sùng kính cách riêng. Lòng đạo đức này còn thể hiện qua việc thầy làm “tuần tam nhật” để cầu nguyện cho chị Tuyết trong dịp lễ bổn mạng của chị, chứng tỏ rằng trong các lễ bổ mạng của từng đứa con, Thầy cũng nhớ đến với tình thương đạo đức như vậy. Lời cầu chúc và kết thư cũng nói lên những tâm tình đạo đức của Thầy. Thầy cũng lần chuỗi hằng ngày. Một hình ảnh Út Ngọc hay nhắc lại: mỗi ngày, Thầy ngồi nơi ghế xa lông phòng khách, hướng nhìn về bàn thờ và lần chuỗi. Chắc vì lòng kính mến Đức Mẹ Mân Côi, Thầy đã được Chúa cất về vào ngày thứ bảy (25-10-69), ngày kính Đức Mẹ.
Cảm nhận thứ hai là sự thân tình giữa Thầy Mẹ, thể hiện qua việc kể các chi tiết về bệnh tình của mẹ: Thầy quan tâm nhiều đến mẹ mới nói được như vậy.
Cảm nhận thứ ba là sự quan tâm của Thầy đến từng đứa con trong gia đình.
Cảm nhận thứ tư là tấm lòng rộng mở của Thầy, nhớ đến rất nhiều người: Một thư ngắn mà nêu đến rất nhiều người: ông bà nội, chú Lương, O Cửu, O Linh, Bác Lâm, bác Khởi, Tuyết, Linh, Chữ, Ngọc, Cha Synh, bà cụ Huyền, O Minh, chú Mịch, ông Câu Báu, cậu Sâm, chị Hiên, bác Khai, anh của bác Linh ở Thanh Dạ,và thậm chí 2 ông bà hàng xóm của anh chị Linh Tuyết, thêm thầy dòng và thân mẫu, thân phụ anh Linh, tất cả 25 người. Có thể nói rằng Thầy quan tâm đến hết mọi người.
3. Lời trối của Thầy
Đúng như Thầy viết trong thư trên đây, vào khoảng giữa tháng 10, Thầy kêu thợ tới dỡ nhà. Căn nhà bằng gỗ làm hơn 10 năm trước, khá giản đơn nên cũng dễ tháo, rồi được đưa lên vườn sau lắp ráp lại, làm căn nhà ở tạm. Thầy bắt đầu đi mua sắm vật liệu cho căn nhà mới. Và trong một chuyến đi như vậy, đã xảy ra tai nạn. Thầy đi bộ ra Đa Thành. Nói thêm: chưa bao giờ thấy Thầy đi xe đạo hay đi xe gắn máy. Khi đang đứng chờ xe lam, loại xe chở khách phổ thông khi đó, để đi ra phố, ông Lê Hòe cỡi Honda 67 đi làm, chạy qua đó, ông thấy Thầy liền mời Thầy lên xe, ông chở đi. Hai người là bạn lâu năm, thật là một niềm vui được đồng hành. Nhưng không biết là do Thầy ngồi chưa vững hay khi đề pa, ông rồ ga mạnh mà gót chân của Thầy vướng vào nan xe. Thầy mang giày vậy mà rách cả giày và vạt mất một phần gót chân. Ông Lê Hòe chở thẳng Thầy vào bệnh viện để chích ngừa bệnh uốn ván nhưng bác sĩ cho biết Thầy bị nhiễm trùng hoại tử, phải cắt ống chân. Nhưng khi thử máu, họ lại phát hiện Thầy bị tiểu đường nặng, không thể giải phẫu vì vết thương không cầm máu. Vậy là đành chịu. Mẹ chăm sóc cho Thầy. Khi đó, tôi đã 24 tuổi mà sao lơ ngơ quá, chỉ loay hoay vòng ngoài và giúp mẹ trong các việc vặt. Khi đó, chỉ có hai mẹ con vì Bác Lâm, Bác Khởi đang du học, gia đình Bác Phương ở Pleiku, gia đình Bác Tuyết ở Bình Tuy, em Ngọc thì đi thăm chị Tuyết sắp sinh. Một ngày rồi hai ngày chậm chạm trôi qua, trong nỗi lo và bất lực của người thân. Đến ngày thứ ba, biết rằng khó qua khỏi, Thầy kêu mẹ và tôi vào bên cạnh. Thầy cầm tay mẹ và nói rất ngắn gọn: “MẸ VÀ CÁC CON GẮNG SỐNG LÀM SAO ĐỂ SAU NÀY ĐƯỢC GẶP NHAU TRÊN THIÊN ĐÀNG”. Sau đó, Thầy thanh thản ra đi, lúc đó khoảng gần trưa ngày 25-10-1969, khi mới 60 tuổi.
Thường người ta để lại di chúc hay lời trối về tiền bạc, tài sản hay dặn dò chuyện nọ việc kia nhưng Thầy chỉ để lại một lời khuyên rất ngắn nhưng lại rất đầy tình yêu thương và đầy đủ vì nói lên hết được cùng đích của những người có lòng tin: đời này chỉ là tạm bợ, phải gắng sống cho tốt lành để sau này được đoàn tụ với nhau trong niềm hạnh phúc viên mãn bên Chúa.
Thầy mất mà không dám báo cho chị Tuyết vì chị gần sinh cháu Quỳnh (26-10-1969) nên Ngọc cũng không hay tin nên đám tang của Thầy chỉ có mẹ, gia đình anh chị Phương và tôi.
4. Nói thêm về Thầy
Tôi không được biết nhiều về Thầy vì khi ở Thọ Ninh thì tôi còn quá nhỏ, lại có thời gian sang ở với Ông Bà Nội, khi di cư vào Nam, Thầy đi làm ở Ban Me Thuột, còn tôi lại đi học ở Vũng Tàu, thời gian ở gần Thầy chỉ vài năm khi tôi vào Đại học Đà Lạt (hè 1966) và Thầy từ Ban Mê Thuột về sống ở Thánh Mẫu. Những gì tôi viết ở đây chỉ là những điều nghe người khác nói.
Thầy rất gỏi tiếng Pháp: Thầy không đi chủng viện nên không biết Thầy học tiếng Pháp với ai. Cha Võ Thanh Tâm, từng là học trò của Thầy ở Trường Saint Joseph (sau đổi thành Trường Đậu Quang Lĩnh) bên Nghĩa Yên, có thời làm Tổng Đại diện Giáo phận Vinh, và từng là học trò của Thầy, nhiều lần nói với tôi về khả năng tiếng Pháp cũng như tính hay trạng của Thầy. Trong một bài viết, Cha nêu lại những nội dung này, chỉ tiếc là ngài không nêu tên cụ thể. Cha viết: “Tôi còn nhớ được học tiếng Pháp với một ông thầy nói tiếng Pháp bằng cung giọng mũi rất lưu loát. Khi nghe ông nói chuyện với linh mục Lantrade thì mình có cảm giác như hai người Pháp nói chuyện với nhau”. Và như trên đã nêu, Thầy đã viết một lá thư bằng tiếng Pháp nhờ người trao tận tay cho Ủy hội quốc tế, nhờ vậy, gia đình mới được di cư
Thầy vui tính hay nói trạng: Cha Tâm viết tiếp: “Khi học danh từ “Delta” có nghĩa là châu thổ, để cho học sinh dễ nhớ thì ông ta tán ra: “Delta là ta đen vì Trung Kỳ ta không có châu thổ nào đáng kể, chỉ có châu thổ sông Hồng ngoài Bắc và châu thổ sông Mekong trong Nam”. Khi học danh từ “cheval” (sơ van) là con ngựa thì ông ta tán ra: “con ngựa là vật rất sợ ván khi phải qua cầu. Khi học danh từ “locomotive” là đầu máy xe lửa thì ông lại tán ra “lo-co-mo-ti-ve là lôi cổ mi đi – Các toa bị đầu máy lôi cổ đi”. Các công thức ức thuật kiểu như thế được thầy giáo tôi đưa ra rất nhiều với một giọng hài hước làm cho học sinh nhớ được rất lâu mà không phải khó ngọc gì” (Võ Thanh Tâm: Các chủng viện Giáo phận Vinh 50 năm về trước. Trong “Kỷ yếu 25 năm Đại chủng viện Vinh Thanh, 1988-2014”, trang 48). Cũng trong tính hài hước này, Thầy tự xưng mình là “Trung tá” và giải thích rằng đó là ông “tra túng” (già và nghèo). Thầy cũng hay nói Chợ Lớn là “Chó Lợn”, chắc cũng không ưa Tàu lắm! Về gen hài hước này thì xem ra Bác Phương được thừa hưởng nhiều nhất, chú Chữ thì cũng được chút đỉnh, chủ yếu là lợi khẩu và ứng biến. Hinh và Thiên Khánh xem chừng cũng được chút chút. Hy vọng tính hài hước của Thầy được duy trì trong các cháu.
Con người hòa giải: Thầy được tiếng là người khôn ngoan, phân tích các vần đề đạt lý thấu tình nên nhiều người đến hỏi ý kiến về các mắc mứu gặp phải. Một số người vướng vào các tranh chấp đất cát, tiền bạc hay tình cảm cũng đến hỏi han Thầy và phần lớn đều được hòa giải, toại nguyện.
Kính Thánh An Tôn: Thầy có lòng tôn kính Thánh An Tôn đặc biệt, bằng chứng là trong các vật quý mang theo khi di cư, Thầy ôm theo khư tượng Thánh An Tôn. Nhiều người nhờ Thầy khấn Thánh An Tôn và nhiều người được ơn. Thánh An Tôn được vinh danh là “hay làm phép lạ”, nhất là giúp tìm lại những đồ vật bị mất. Bức tượng này hiện được treo ở Nhà Tổ Thánh Mẫu như một lời nhắn gửi đến con cháu.Về mặt này, xem ra Út Ngọc thừa hưởng được di sản của Thầy. Ngọc hay khấn Thánh An Tôn và thường được ơn, có vài người còn nhờ tôi nhắn sang Út Ngọc, xin khấn hộ.
Thầy “hảo ngọt” không theo nghĩa bóng nhưng theo nghĩa đen. Thầy thích đường. Còn nhớ, thầy rất thích mẹ nấu che đậu ván thật ngọt. Trước nhà, trồng một bụi đậu ván, làm giàn cho nó leo. Trái đậu to và dẹp nên gọi là đậu ván, hạt nấu rất bở và bùi. Mỗi sáng, Thầy đều uống cà phê sữa, trong đó một nửa là cà phê một nửa là sữa. Có lẽ vì thích ngọt như vậy nên Thầy bị bệnh tiểu đường, chỉ tiếc rằng khi đó chưa phát hiện ra triệu chứng gì, đến khi bị tai nạn, mới biết bị tiểu đường nặng.
Câu đối tặng Thầy: Chẳng nhớ năm nào, hình như là 1959 (?) và cũng chẳng nhớ ai, đã mang đến tặng Thầy một cặp câu đối, viết bằng chữ Hán, phiên âm ra nguyên văn như sau:
TỔ CÔNG PHỤ ĐỨC THIÊN NIÊN THỊNH
TỬ HIẾU TÔN HIỀN VẠN ĐẠI VINH
Dịch nghĩa: CÔNG TỔ, ĐỨC CHA, NGÀN NĂM THỊNH
CON HIẾU CHÁU HIỀN, VẠN ĐỜI VINH
Nhìn lại, chúng ta tạ ơn Chúa và tri ân Tổ Tiên, Thầy Mẹ vì một phần nào lời chúc này đã được thực hiện và ghi nhớ rằng bổn phận của chúng ta là sống làm sao để lời chúc này trở thành thực sự là phúc lành của Chúa. Câu đối này, tôi đã đưa treo ở nhà Sài Gòn, như lời một lời nhắc nhủ con cháu nhớ về công lao Tổ Tiên và nỗ lực sống cho tốt đẹp.
5. Ánh mắt của Mẹ
Mỗi người đều có một người Mẹ, được Mẹ yêu thương, được nuôi nấng và lớn lên trong vòng tay nâng niu của Mẹ. Mỗi người đều có những cảm nhận về tình mẫu tử và giữ những kỷ niệm rất riêng với Mẹ. Tôi cũng vậy, ngay từ tuổi thơ, tôi đã cảm nhận được tình Mẹ qua biệt danh “Cục vàng Mẹ choa” Mẹ dành cho tôi. Và cuối đời của Mẹ, Mẹ đã dành cho tôi ánh mắt trìu mến mà tôi không bao giờ quên.
Những ngày đầu tháng 9-1995, tuy công việc xây nhà đang ở giai đoạn cuối, nhưng nghe tin sức khỏe Mẹ giám sút, tôi về Thánh Mẫu. Những ngày đó, ngoài Khanh Ngọc và các cháu, Bác Khởi cũng về, túc trực bên Mẹ. Thực ra, Mẹ không bị bệnh gì nghiêm trọng, anh em còn tin rằng Mẹ sẽ còn sống dài ngày nên đã tính tới phương án luân phiên nhau về chăm sóc Mẹ, đỡ đần phần nào vất vả cho Khanh Ngọc. Mẹ chỉ ăn rất ít nên yếu đi rất nhanh. Chiều ngày 8-9-1995, Mẹ có dấu hiệu lịm dần. Bác Khởi và tôi ở trong phòng Mẹ, cái phòng ngoài cùng có cửa sổ. Bác Khởi đứng ở đầu giường đọc kinh phó dâng linh hồn Mẹ trong tay Chúa. Tôi đứng chếch ở cuối giường (vì phần cuối này kê sát tường), âm thầm cầu nguyện và nhìn vào mắt Mẹ. Mẹ không nói nữa. Mẹ chỉ nhìn tôi, ánh mắt dịu hiền, thời gian khá lâu, kéo dài nhiều phút, sau đó, Mẹ thở hắt ra và sinh thì. Bác Khởi làm dấu Thánh Giá, chúc lành cho Mẹ. Ngay sau đó, Ngọc chạy vào, òa khóc, còn anh Khởi và tôi đưa tay chùi nước mắt, rồi ra khỏi phòng để Ngọc, Khanh và chị Hiên lo cho Mẹ: lấy khăn ướt lau sạch thân thể và thay quần áo cho Mẹ, toàn màu trắng, bên ngoài là áo dài trắng, những thứ mà Ngọc đã chuẩn bị từ trước.
Trong anh chị em, tôi là người duy nhất được chứng kiến cái chết của cả Thầy và Mẹ. Tôi cho rằng đó là một điều may và phúc cho tôi. Hơn nữa, tôi còn được đón nhận ánh mắt trìu mến của Mẹ mà tôi tin không chỉ dành riêng cho tôi mà còn cho tất cả các con, cháu của Mẹ. Từ đó, tôi luôn cảm nhận được ánh mắt trìu mến của Mẹ, anh mắt yêu thương luôn theo bước đời tôi.
6. Mẹ tôi
Mẹ tôi tên là Maria Trần Thị Tam, nghe tên thì biết Mẹ là con thứ ba, sau Cậu Hương và Dì Hàn, con của ông Trần Bàn, cùng quê Thọ Ninh. Mẹ sinh năm 1909 và lập gia đình năm 1929. Thầy Mẹ có một đàn con đông đúc, tới 9 đứa, gồm 7 trai và hai gái. Từ năm 1930, được gọi là năm cộng sản vì từ đây đã xuất hiện Đảng Cộng sản, về sau là một giai đoạn khó khăn và chiến tranh loạn lạc kéo dài, trong đó phải kể thêm nạn đói năm Ất Dậu 1945 kinh hoàng, cướp đi sinh mạng hàng triệu người. Kế đó là thời kỳ của cuộc “cách mạng long trời lở đất” với cao điểm là đấu tố trong cải cách ruộng đất, mà Ông Bà Nội bị quy địa chủ còn Thầy Mẹ bị ghép thành phần trung nông. Rồi đến thời di cư, bỏ lại tất cả để làm lại từ đầu ở Miền Nam. Nói thế để chúng ta mường tượng ra cảnh vất vả nhọc nhằn Mẹ phải gánh chịu khi nuôi đàn con, như hình ảnh bao người mẹ quê Việt Nam, sớm hôm tần tảo. Có thời Mẹ đi buôn bán xa, vào tận Dòng Mến Thánh Giá Hương Phương, nơi Mẹ có hai người bạn tu ở đó là Bà Quang và Bà Ái[1] và hàng hóa Mẹ mang theo là tràng chuỗi mã não và ảnh Đức Bà, những sản phẩm của lòng đạo đức. Nghe nói chính Mẹ đi mua hạt mã não, về kết thành tràng chuỗi, rồi mang đi bán.
Khi gia đình về Thánh Mẫu và cuộc sống đã ổn định, Mẹ bắt đầu công việc truyền giáo bằng việc tham gia Legio Mariae (Đạo Binh Đức Mẹ), do Cha Mạnh Trọng Bích thành lập, quy tụ khá nhiều người. Hàng tuần, họ chia nhau đi thăm viếng các gia đình lương hay các gia đình rối hoặc nguội lạnh. Thành quả là một số gia đình xin theo đạo, trong đó, gắn bó với Mẹ và gia đình chúng ta là gia đình anh chị Tám và gia đình chị Năm Được. Chính Mẹ dạy giáo lý cho họ và khi họ gia nhập Hội Thánh, Mẹ là người đỡ đầu cho chị Tám và chị Năm Được. Chị Tám vẫn giữ liên lạc với Mẹ cho tới khi mất. Chị Năm Được cũng vậy.Khi chị Nam vào iu1p Tòa Giám mục Vinh Long, tôi có một lần ghé thăm, còn chị cũng đôi ba lần về Sài Gòn ghé thăm tôi và hầu như hằng năm đều có thư thăm vào dịp Tết. Mấy năm gần đây, thấy vắng tin, không biết chị Năm còn hay mất?
Mẹ còn có một người con tinh thần là nữ tu Louise Hương, Dòng Đa Minh. Trong một đơn đi Đà Lạt nghỉ dưỡng bệnh, chị Louise ngụ tại nhà Mẹ và vì lòng quý mến Mẹ, chị đã xin được làm con tinh thần của Mẹ. Mẹ nhận lời và từ đó chị luôn giữ quan hệ với gia đình. Khi chị làm ở Bệnh viện Hùng Vương, chị đã giúp Trinh đăng ký theo dõi thai và sinh ở đó. Sau này, chị về cộng đoàn ở Tam Hiệp, làm việc ở BV Gioan Thiên Chúa (nay là BV Thống Nhất Hố Nai), chị đã có dịp chăm sóc cho Bác Lâm khi Bác bị tai biến và liệt nửa người. Vợ chồng chúng tôi cũng đã vài lần ghé thăm chị. Trong chuyến đi Israel năm 2015, được gặp Sơ Tám, cùng tu với chị Louise Hương ở Tam Hiệp, hỏi thăm, mới biết chị Louise đã mất trước đó một năm.
Lòng đạo đức của Thầy Mẹ đã ảnh hưởng lên con cái, cụ thể là có tới ba anh chọn con đường sống đời tận hiến: anh Chương học Đại chủng viện, nổi tiếng thông minh và nhảy lớp, đã tới chức bốn nhưng qua đời năm 1945 vì bệnh, còn lại Bác Lâm và Bác Khởi là linh mục. Các Bác là tu sỹ dòng, nhất là Bác Lâm lại là dòng khổ tu nên ít khi về thăm Mẹ. Mỗi lần về, cũng chỉ đôi ba ngày. Mỗi khi chia tay, Bác Lâm hay hỏi Mẹ: Mẹ có muốn con ở lại thêm vài Mẹ vài ngày nữa không? Câu trả lời của Mẹ luôn luôn là: “Các con là người của Chúa, Mẹ không dám đòi gì hơn. Đã dâng con cho Chúa là xin dâng trọn vẹn”.
Niềm vui của Mẹ, nhất là những năm cuối đời, là được đi lễ và đọc kinh, lần chuỗi. Hầu như Mẹ không bỏ bữa lễ nào, trừ khi đau ốm. Tôi nhớ những ngày Mẹ về thăm ở Sài Gòn, Mẹ nhất quyết đòi đi lễ, có khi tôi không chở được, Mẹ cũng đi bộ tuy không rành đường. Có hôm đi lễ Tân Định về, Mẹ quên đường (mặc dầu rất dễ đi: dọc Hai Bà Trưng, đến Lý Chính Thắng rẽ trái là về tới nhà, Mẹ cứ hỏi người này người kia: “nhà ông Chự ở mô”, nhưng giữa đất Sài Gòn mênh mông, nào có ai biết phó thường dân này là ai. May mà một người lối xóm gặp Mẹ nên đưa Mẹ về.
Vài năm cuối, trí nhớ của Mẹ không còn minh mẫn nên cứ đòi đi lễ nhiều lần trong ngày, có khi Mẹ nhất định mặc áo dài lên nhà thờ lúc 2, 3 giờ chiều.
Út Ngọc và gia đình được may mắn sống bên Mẹ nhiều thời gian nhất, có nhiều kỷ niệm với Mẹ nhưng không có khiếu viết, nên chỉ ngắn gọn trong một email ngày 13-8-2017: “Về mặt đạo đức, Mẹ còn đức tính thường người. Về đức tính hiền lành thì sống gần Mẹ, em chưa thấy Mẹ to tiếng hay cãi vã với ai bao giờ, trong cuộc sống, nếu có gì bất đồng thì Mẹ luôn chọn phần thiệt về mình. Đối với con cháu, nếu làm điều gì sai thì Mẹ không la mắng, quát tháo mà chỉ nhắc nhở và nhiều khi Mẹ tỏ ra lo, buồn để mình nếu biết thương Mẹ thì lo mà sửa đổi. Trong giao tiếp, em thấy Mẹ rất đơn sơ, chân tình, không khéo léo ngoài mội miệng và không làm điêu”.
Trong việc chăm lo cho con cái, tôi cứ nhớ mãi câu chuyện Mẹ lo cho con “của ăn đàng”: cứ mỗi lần tôi đi Sài Gòn là khoảng 2 – 3 giờ sáng, Mẹ đã thức dậy, lục cục dưới bếp, thường là Mẹ thổi xôi và luộc thêm mấy cái trứng gà, để vào cà men và đưa cho tôi mang đi để ăn dọc đường. Nhiều khi tôi không muốn, nhất là khi tôi đã đi làm và có thu nhập, thích ghé quán ăn chứ không muốn ăn theo kiểu nhà quê nghèo như vậy. Nhưng Mẹ nhất định bắt mang theo. Nhiều khi tôi nổi quạu nhưng rồi cũng mang theo, tuy không ăn dọc đường mà mang theo về nhà. Cũng vậy, trong những năm 80, mỗi khi về thăm, Mẹ lại tìm chút quà gì trong vườn cho Hinh và Khiêm. Mẹ trồng được mấy cây mía khá to ở trước vườn. Vậy là Mẹ chặt một hai cây, cắt khúc ra, bỏ vào giỏ đưa tôi mang về. Tôi nói: hai cháu sún răng hết, nhai không nổi mía này đâu. Nhưng Mẹ nhất định bắt mang theo. Tôi lại bực mình. Nghĩ lại mà ân hận quá vì tình thương của Mẹ quá chân chất, Mẹ thương con thương cháu và lo theo cách của Mẹ nhưng mình lại nhìn theo con mắt của mình. Con xin lỗi Mẹ về những chuyện này và những chuyện khác con làm cho Mẹ buồn.
Về đám tang của Mẹ, Út Ngọc nhớ lại: “Đám tang của Mẹ được Cha Chuyển bố trí tổ chức rất chu đáo, trật tự, sốt sắng trang nghiêm. Đức Cha Nguyễn Sơn Lâm chủ tế, Cha Chuyển và Anh Khởi đồng tế, cùng với một số linh mục của Giáo phận Đà Lạt, các cha của hai nhà dòng Phước Sơn và Phanxicô và rất đông đảo tu sĩ nam nữ và bà con giáo dân xứ Thánh Mẫu thì đông lắm. Trong thánh lễ Đức Cha Lâm giảng. Sau thánh lễ, đoàn rước đưa linh cữu Mẹ ra nghĩa trang, rất đông, hầu như gồm hết mọi người tham dự thánh lễ, đoàn rước đi rất trật tự, vừa đi vừa đọc kinh sốt sắng, kèm với những tiếng chiêng, tiếng trống tiển đưa người quá cố” (Email ngày 13-8-2017). Riêng tôi, chỉ xin thêm một chi tiết: Trong thánh lễ an táng, tôi đã xin ca đoàn hát bài Magnificat vào cuối thánh lễ. Tôi muốn mượn tâm tình tạ ơn và chúc tụng của Đức Mẹ Maria để dâng lên Thiên Chúa những tâm tình tạ ơn và chúc tụng vì tình thương Chúa đã dành cho Mẹ chúng tôi, một nữ tỳ thấp hèn của Chúa.
7. Mẹ rủ con theo Mẹ
Cuối năm 1995, chúng tôi dọn sang nhà mới, nhà 618/16 Bis Xô Viết Nghệ Tĩnh, một biệt thự rộng rãi có vườn trước, vườn sau. Tháng 4-1996, tôi đi Pháp chuyến đầu tiên, ở nhà, Út Khải đau một trận nặng vì sốt xuất huyết. Ông Năm Sang, chủ đất ở bên cạnh nói: Thằng Út nhớ bố nên đau bệnh!? Chúng tôi tiếp tục ở đó, cuối năm 1996, Hinh đi du học, căn nhà đã rộng nay thêm rộng, Sang năm 1997, anh chị Linh Tuyết gửi cháu Tâm vào học Đại học Sư phạm Sài Gòn, tạm trú ở nhà chúng tôi. Khoảng tháng 10 năm đó, xảy ra một biến cố không bao giờ quên. Một hôm, trên đường đi làm về, tôi bị mưa ướt sũng cả người và sau đó tôi bắt đầu lên cơn sốt, có lẽ do cảm lạnh. Nhưng cảm lạnh thì cũng có thễ chữa hết trong thời gian ngắn, nhưng không hiểu sao, bệnh của tôi kéo dài, đi khám bác sĩ và uống thuốc cũng không hết. Khoảng mười ngày sau, tôi bị lạnh run, lạnh run nhưng lại đổ mồ hôi rất nhiều, một đêm có khi phải thay mấy cái áo lót vì bị ướt mồ hôi. Bác Lâm đến thăm cho biết: Bác cũng từng bị ra mồ hôi như vậy, nhất là khi có việc gì lo sợ. Và ra mồ hôi như vậy, rất khó ngủ. Vợ tôi rất lo. Chị Tuyết và Ngọc vào thăm, cũng rất lo.
Trong lúc bệnh tình như vậy thì một con cú bay vào nhà. Vào một buổi chiều, khi vợ đang đi đón Khiêm và Khải, tôi đang đi lại trong nhà cho khuây khỏa thì bỗng thấy một con chim, khá to, bay vào nhà, chưa biết là chim gì. Tôi nói cháu Tâm dóng các cửa lại, thế là chú chim hết đường ra, cứ bay tới bay lui từ phòng khách xuống phòng bếp, bay một hồi mỏi cánh nên đậu bám vào mấy thanh sắt cửa nhà bếp ra vườn sau. Khi nó đậu, tôi mới nhận biết đó là một con cú. Tôi hết hồn vì nhớ lại những kiêng kỵ liên quan đến loài chim này, nghe nói nó đậu nhà ai, kêu mấy tiếng nghĩa là báo hiệu nhà đó có tang. Đàng này, thậm chí nó còn bay vào tận trong nhà! Dầu vậy, tôi cũng bình tĩnh nói cháu Tâm lấy cái lồng bàn rồi tìm cách bắt nó. Nó lại bay tới bay lui nhưng rồi lại đậu vào cánh cửa. Cháu Tâm lấy cái lồng bàn hất nó xuống đất và đậy nó lại. Tôi lại nói cháu Tâm lấy cái mâm rồi lựa cách đưa nó lên mâm, vẫn nhốt trong lồng bàn, chờ Khiêm Khải về, cho hai đứa nhìn thấy con cú thật (dễ gì được thấy!). Tôi nói với con chim cú: theo lẽ tao băm mày nấu cháo giải cảm nhưng thôi, tao sẽ tha cho mày, coi như mạng đổi mạng. Khi Khiêm Khải về, tôi nói hai đứa tới xem con cú, sau đó, tôi nói Khiêm bưng cái mâm ra ngoài cổng rồi mở cái lồng bàn cho nó bay đi. Khiêm làm như vậy, con cú bay đi còn tôi thì an tâm hơn. Sau này, kể lại chuyện, mấy người bảo cho biết chim cú ban ngày không nhìn rõ đường nên có thể nó bay lạc vào nhà và đây là một con cú còn non. Nhưng phần sau đây không biết có liên quan gì đến con cú chăng?
Căn bệnh đổ mồ hôi vẫn còn, tôi tiếp tục nghỉ ở nhà vì khi đó tôi đang thôi việc ở báo CGvDT, chỉ cộng tác với Cha Cần về lịch sử.
Một đêm, khi đang ngủ, tôi mơ thấy Mẹ về và tôi nghe rất rõ tiếng nói của Mẹ, giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh. Mẹ nói: “Ta đi con hè”. Cũng không hiểu sao, đang lúc mơ màng như vậy, tôi nhớ rằng tôi đã thưa với Mẹ: “Xin Mẹ cho con thư thả, khi nào con con khôn lớn, con sẽ theo Mẹ”. Sau đó tôi thiếp đi nhưng nội dung giấc mơ này, tôi nhớ rất rõ.
Trong cùng một thời điểm, xảy ra hai biến cố có vẻ liên quan đến cái chết, lại đúng vào lúc tôi ở tuổi 53 (1945-1997), cái tuổi dễ ra đi, như câu dân gian “49 chưa qua, 53 lại tới”, có lẽ là một điềm báo, theo lẽ số phận của tôi đến đó là hết, Chúa định cất tôi đi nhưng Ngài còn thương xót và nhờ Thầy Mẹ chuyển cầu, Ngài còn để tôi lại. Con xin tạ ơn Chúa và con xin cám ơ Thầy Mẹ. Nhưng đến một lúc nào đó, theo lời hẹn của Thầy “sẽ gặp nhau trên Tiên đàng” và đến một lúc nào đó, theo lời rủ của Mẹ, con xin được theo Thầy Mẹ.
[1]Trong chuyến thăm Dòng MTG Nha Trang ngày 06-09-2017, tôi được Chị Tổng Phụ trách dẫn đi xem nhà dòng, được đứng trước di ảnh và di cốt của hai Bà và thưa với chị Tổng Phụ trách: hai bà đây là bạn của Mẹ em.