Tường Trình Công Việc Cải Táng Di Cốt Tổ Tiên Họ Tộc Vương Đình
TƯỜNG TRÌNH
CÔNG VIỆC CẢI TÁNG DI CỐT TỔ TIÊN
HỌ TỘC VƯƠNG ĐÌNH
1. Chung một tâm tình, chung một quyết định.
Tôn kính và hiếu thảo với Tổ tiên là một truyền thống tốt đẹp của người Việt. Khi các ngài còn sống thì mến yêu , phụng dưỡng, săn sóc, vâng phục. Khi các ngài quá vãng thì thờ cúng, hương khói, chăm sóc mộ phần , với tâm tình tri ân và tưởng nhớ.
Với đức tin Kitô giáo, Đạo Hiếu được đề cao và trở thành một nghĩa vụ tinh thần, theo Điều răn của Chúa: “Hãy thảo kính Cha Mẹ”. Tuy đây là điều răn thứ bốn trong Thập điều nhưng lại là điều răn thứ nhất trong các điều luật “đối nhân, xử thế”, chứng tỏ Thiên Chúa rất coi trọng Đạo Hiếu. Và với niềm tin vào mầu nhiệm “ Các Thánh thông công”, người Kitô hữu xác tín rằng giữa người sống và người quá cố vẫn luôn có mối giây hiệp thông thân thiết và gần gũi.
Tổ tiên Họ tộc Vương Đình xuất phát từ Họ tộc Vương Khả ở Thạch Hà, Hà Tĩnh. Đến đời Vương Tiên Công (mà chúng ta chưa xác định được danh tánh), đã dời cư về Chợ Thượng (= Kẻ Thượng), Thọ Kỳ (= Thọ Ninh) là một vùng giáo lâu đời (Kẻ Thượng theo đạo từ 1676), thuộc Huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Có thể vì theo Công giáo mà Vương Tiên Công đã dời cư về đây ? Từ đó, hậu duệ của Vương Tiên Công đã lập cư ở Kẻ Thượng (nay là xã Trường Xuân), rồi Thọ Kỳ (=Thọ Ninh, nay thuộc xã Liên Minh). Tổ tiên và hậu duệ đã sinh sống và an nghỉ nơi đây hàng trăm năm .
Về mồ mả của tiền nhân : Trước hết, xin nói về ngôi mộ của VƯƠNG TIÊN CÔNG . Ông Vương Đình Lương kể lại rằng trong trang CỐ LIỆU, có một ngôi mộ xây (duy nhất) có bia viết bằng chữ Hán. Ông Lương không đọc được chữ Hán nên về hỏi Cụ Thân sinh VƯƠNG ĐÌNH BÁ . Cụ Bá nói Ông Lương cầm một tờ giấy và đồ chữ đó về cho Cụ. Ông Lương làm và mang về, Cụ Bá cho biết các chữ đó là bia mộ VƯƠNG TIÊN CÔNG. Nhân dịp đó, Cụ Bá cho Ông Lương biết VƯƠNG TIÊN CÔNG là một Ông (= Công) Họ Vương đầu tiên ở Thọ Ninh mà không biết chính xác danh gọi, và gốc gác của Họ tộc VƯƠNG ĐÌNH là xuất phát từ Họ tộc VƯƠNG KHẢ ở Thạch Hà. Chính dựa trên lời trăn trối này, Họ tộc chúng ta đã tìm về được cội nguồn của mình và Họ tộc VƯƠNG KHẢ cũng nhìn nhận tính chính đáng và hợp lý của việc làm này (Về việc này, xin xem lại các bản tường trình của LM VƯƠNG ĐÌNH KHỞI).
Còn các vị tiền nhân khác, khi qua đời, được chôn cất ở nhiều nơi khác nhau. Riêng Chi Cố Liệu, do điều kiện kinh tế khá giả nên có một nghĩa trang riêng, thường được gọi là Trang CỐ LIỆU. Cũng có mấy mộ ở Trường Xuân được Cố Liệu và Cố Đào bốc về , không rõ thời gian năm nào. Ngoài trang Cố Liệu, Thọ Ninh còn các trang BỜI LỜI, trang CON NÂY (= Nai) , trang CON CHĂM, trang TRƯỜNG DĂM….
Năm 1965, Xã Đức Ninh (tiền thân của xả Liên Minh ngày nay) chọn Trang NỀN NHÀ (hình như ngày xưa, nơi đây làm gạch?), còn gọi là ĐỘI RUỘNG LƯƠN, là một nơi khô cằn, làm nghĩa trang của Xã. Năm 1976, chính quyền Xã chủ trương di dời các mồ mả nằm rải rác các nơi, quy tập vể Trang Nền Nhà để lấy đất sản xuất nông nghiệp. Trong mấy ngày liền, toàn bộ bà con Họ tộc, dưới sự hướng dẫn của Ông Vương Đình Lương, Vương Đình Huệ, Vương Đình Đàn, đã bốc mộ và tái án táng các tiền nhân vào chung một khu vực, ở ngay tại và chung quanh vị trí sau này là Ngôi Mộ Chung.
Các ngôi mộ này vẫn đắp bằng đất, hằng năm bị ngập lụt lại thường xuyên bị trâu bò dẫm đạp nên xuống cấp nghiêm trọng. Trước tình hình này, năm 1988, bà con đã quyết định cải táng một lần nữa, đặt các vị vào một Ngôi Mộ Chung, xây bằng xi măng, theo hình Thánh Giá. Các di cốt được bỏ vào trong các tiểu sành và vị trí của các tiểu này được ghi lại trên giấy cho bà con sau này dễ nhận biết A.
Nhưng vào năm 1988, tình hình kinh tế của đất nước còn rất khó khăn nên đã không có đủ vật liệu tốt, kỹ thuật thực hiện lại sơ sài, thêm vào sự phá phách của các trẻ chăn trâu, nên Ngôi Mộ Chung này lại mau xuống cấp . Năm 2006, Họ tộc quyết định trùng tu và nâng cấp Ngôi Mộ chung này . (Xin xem tường trình 2006 về việc này).
Do biến động của thời cuộc, từ năm 1954, khi Đất Nước bị chia cắt, một số bà con Họ tộc đã di cư vào Nam. Sau biến cố 30-4-1975, khi Đất Nước thống nhất, số người rời quê hương Thọ Ninh ngày càng nhiều và đến năm 2000, nội tộc Vương Đình không còn ai ở Thọ Ninh, chỉ còn gia đình Chú Vương Đình Biên ở bên kia sông La, thuộc Thị trấn Đức Thọ.
Bên cạnh đó, lại có tin loan truyền rằng chính quyền địa phương sẽ giải tỏa nghĩa trang, lập một nghĩa trang mới ở Bãi Tùng. Một số người gốc Thọ Ninh cũng đã di dời hài cốt Tổ tiên vào Nam. Trong bà con, gia đình Chú Vương Đinh Cam đã di dời hài cốt Ông Bà Cụ Vương Đình Trinh vào Thánh Mẫu năm 1997, còn chú Vương Đình Liêm đã di đời hai cốt Ông Bà Cụ Vương Đình Dương vào Châu Sơn, năm 2007. Trước đó nữa, năm 1979, hài cốt Cụ Vương Đình Đường được đưa từ Mương Mán về Châu Sơn.
Trước các tình hình này, vấn đề di dời hài cốt Tổ tiên và thân nhân được bà con đặt ra liên tục trong các cuộc Họp mặt Họ tộc. Nhiều phương án và nhiều ý kiến được thảo luận nhưng không đạt được một sự đồng thuận nào. Một phần do khác biệt trong nhận thức đưa đến những ý muốn khác nhau, một phần do các khó khăn khách quan mà cụ thể là một lô đất và tài chính để xây một nhà thờ Tổ. Tuy vậy, hầu như mọi người đều thao thức, mong muốn di dời Tổ tiên vào Nam cho gần bà con, tiện bề chăm sóc, thăm viếng . Và nhiều ý kiến cho rằng thế hệ con cháu hiện nay đứng ra thực hiện việc di dời và cải táng là phù hợp nhất.
Cuộc họp Họ tộc Xuân Canh Dần (ngày 28 tháng 2-2010) và các trao đổi tiếp theo (chủ yếu qua email và điện thoại), tuy đôi lúc gay go, quyết liệt , cuối cùng bà con đã quyết định di dời và cải táng hài cốt Tổ tiên, với các đồng thuận chính yếu như sau:
a/ Tách làm hai nhánh : Các bậc thuộc Chi Trưởng (Cố Liệu) cùng các bậc tiền bối (Vương Tiên Công, Vương Đình Quế) về an nghỉ tại nghĩa trang Châu Sơn. Chi Thứ (Cố Đào) về an nghỉ tại nghĩa trang Thánh Mẫu. Riêng Bà Vương Đình Lương (Dương Thị Lý) được chồng và con cháu đón về Xuân Sơn.
b/ Lập Ban Tổ chức chung do Chú Vương Đình Chữ làm điều phối viên, phụ trách việc bốc mộ ở Thọ Ninh và di dời hài cốt vào Nam.
c/ Lập Ban tổ chức địa phương Thọ Ninh, Châu Sơn, Thánh Mẫu và Xuân Sơn lo việc bốc mộ, di dời, đón tiếp và tái an táng .
d/ Huy động tài chính theo tinh thần tôn trọng sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, cũng như tôn trọng hoàn cảnh cụ thể của từng thành viên trong Họ tộc. Đóng góp chủ yếu do tùy tâm và tùy khả năng.
e/ Thực hiện việc này sớm nhất có thể vì đã hội đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Sau khi có nghị quyết của Họ tộc, chúng tôi bắt tay vào việc.
Việc đầu tiên là lên phương án lộ trình và thời điểm. Có một trùng hợp may mắn là tôi được mời về Vinh dự lễ mừng Kim khánh Linh mục của Đức Cha Cao Đình Thuyên ngày 11-5-2010, lại được gặp Chú Lương ở Xã Đoài nên hai chú cháu rủ nhau về Thọ Ninh. Trong hai ngày 12-13/5, chúng tôi đã gặp bà con để thông báo quyết định của Họ tộc, tìm hiểu các vấn đề liên quan (như thời tiết, vụ mùa…), bàn thảo phương thức tổ chức và phân công cụ thể. Chúng tôi cũng đã gặp Cha Nguyễn Bá Lộc, chính xứ Thọ Ninh để xin ngài hỗ trợ công việc này. Cả Cha xứ, cả bà con đều đồng lòng ủng hộ và cộng tác.
Dựa trên các thông tin này, chúng tôi đã lập một phương án về thời điểm và lộ trình mà sau khi trao qua đổi lại và điều chỉnh do yêu cầu của các địa phương, ngày khởi hành được ấn định là 4 g 00 sáng ngày Thứ Bảy 12-6-2010, xuất phát từ Sài gòn, lên Banmêthuật, qua Kontum, theo đường Trường Sơn ra Đức Thọ và ngược lại, về Banmêthuật, lên Đà Lạt, xuống Xuân Sơn và kết thúc ở Sàigòn.
2. Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây : Lộ trình ngàn dặm
N.1 . Đúng như kế hoạch, 4 giờ sáng ngày thứ Bảy 12/6, chiếc xe Mercedes 16 chỗ ghé qua Thủ Đức đón chú Thao, sau đó đến Bình Thạnh đón chú Chữ và lên đường, hướng về Quốc lộ 13, đi qua Bình Dương . 7 giờ, điểm tâm ở Đồng Xoài. Đi tiếp vào quốc lộ 14, đến ngã ba Kiến Đức, bác tài muốn tránh đoạn đường xấu trước mặt nên rẽ vào tỉnh lộ 681. Đi gần hai chục cây số, có cảm tưởng lạc đường nên bác tài quay đầu xe. Tôi đề nghị dừng lại, hỏi đường dân địa phương, họ cho biết có thể đi tiếp và ra lại đường 14. Vậy là quay đầu xe lại, đi tiếp đến đường 14C, qua Tuy Đức, đến Dak Song và gặp lại quốc lộ 14. Bác tài cho biết nhờ đi lạc đường mà lộ trình rút ngắn được mấy chục cây số ! 11 g 30, cơm trưa tại DakMil và 13 g 10, đến nhà Chị Vương Thị Hoa ở đường Y Jut, BMT. Chị Hoa đi Mỹ, dự lễ tốt nghiệp của con trai, Anh Sĩ Trạch đảm đang không kém, tiếp đoàn niềm nở với trà và trái cây. Đoàn đón thêm các Bác Vương Đình Bình, Vương Đình Phong, Trần Đức Tịnh , các Chú Vương Đình Kính và Trần Văn Cảnh và lên đường lúc 13g30. Mới chạy được một đoạn thì nghe điện thoại Bác Vương Đình Phan từ Mỹ gọi về hỏi thăm, động viên anh em và chúc đoàn lên đường bình an. Đoàn ghé Hà Lan, thăm O Vinh và đón thêm O Mỹ ( con O Vinh) cùng đi.
17 giờ 15, đoàn đến nhà thờ Đức An, Pleiku , gần cộng đoàn O Linh, vừa kịp dự thánh lễ lúc 17 g 30. Vì thân quen với Cha xứ Nguyễn Văn Thượng nên sau lễ, Chú Chữ vào chào thăm Cha và Cha đã ra đến tận xe chào bà con và chúc đoàn đi bình an. Đoàn ghé cộng đoàn O Linh và được đãi một bữa cơm cung đình ngon lành và ấm cúng. O mời đoàn ở lại nhưng nghĩ đến chặng đường dài ngày mai, đoàn quyết định tranh thủ chạy thêm một đoạn. Từ Pleiku lên Kontum, định chạy đến Tân Cảnh, Đức Cơ nhưng khi tới Dakto, đã qua 22 giờ và được dân ở đó cho biết khó tìm nhà trọ ở Tân Cảnh, nên đoàn quyết định ngủ đêm tại Dakto. Lòng vòng hai lần trên con đường chính của thị trấn mới tìm được một nhà nghỉ .
N.2 . Mới gần 3 giờ rưỡi sáng, “lơ xe” (chức danh tự phong của Chú Chữ) đã đi gõ cửa các phòng, đánh thức bà con. Xem chừng ai cũng có “tác phong nhà binh” vì 3 g 45 , xe đã chuyển bánh. Trời còn mù mờ nên bác tài lại lạc đường, chạy về hướng Tây, đến trạm thu phí, hỏi đường, mới hay đang ở rất gần biên giới Lào! Quay đầu xe nhưng lần lạc đường này không may như lần trước vì kéo dài lộ trình thêm khoảng 40 cây số ! 8 g 45, đến Thạnh Mỹ, ở ngã ba đi xuống Hòa Cầm, Đà Nẵng, có chiếc cầu Thạnh Mỹ nối đường Đông Trường Sơn với đường Tây Trường Sơn. 12 g 30, đi ngang qua A Lưới, tìm chỗ ăn trưa nhưng không thấy quán cơm nào cả ! Chạy tiếp, mãi đến 14 g 30 mới đến cầu treo Dakrong, nối vào Đường 9. Mới mở cửa xe, ai cũng muốn giật lùi vì hơi nóng phả vào người, cảm giác như bước vào lò nung : lâu lắm mới được thưởng thức sự nồng ấm của gió Lào . Từ đường 9, vào lại đường Tây Trường Sơn. Đoàn ghé thăm Nghĩa trang Trường Sơn, nơi hàng vạn người đang an nghỉ, đọc kinh cầu nguyện cho các linh hồn vì nghĩ rằng họ cũng là đồng bào của mình và một cách nào đó cũng là con của Chúa và xét cho cùng, họ cũng là nạn nhân của một cuộc chiến. Những địa danh mới đi qua như Dakto, Tân Cảnh, A Lưới, Đường 9 Nam Lào… gợi nhớ bao tang thương. Trên đường về là những địa danh khác không kém bi thương : Sông Gianh, Sông Bến Hải, Đại lộ kinh hoàng ( Quang Trị) … Có thể cảm nhận được rằng mảnh đất nào trên quê hương này cũng thấm máu và pha lẫn phần thịt xương của đồng bào chung một Mẹ Âu Cơ.
Đường Tây Trường Sơn hẹp hơn đường Đông Trường Sơn, nhiều đoạn bị hư hỏng vì do đất sạt lở, nhiều nơi công nhân đang gia cố chân ta luy. Thỉnh thoảng thấy vài chiếc xe cẩu, chắc là để sẵn hầu giải quyết các sự cố. Đường quanh co liên tục, vài người trong xe bắt đầu cảm thấy mệt và muốn ói. Đến một lúc, không rõ đang ở địa danh nào, xe không chịu chạy, mở cửa bước ra mới hay xe bị mắc lầy ! Mọi người đều xuống và gắng sức đẩy. Bốn năm lần cũng chẳng thành công. Sau đó, nhờ sáng kiến vừa đẩy vừa nâng, xe mới qua được vũng lầy. May mà gần đó có con suối nên anh em vào rửa ráy và đúng chụp hình lưu niệm, phần lớn còn đi chân trần. Đoạn đường từ Phong Nha Quảng Bình về đến Hương Khê khá tốt và bẳng phẳng, phong cảnh lại đẹp, bà con phấn chấn vì thấy sắp đến nhà. 21 g 30, xe về đến Đức Thọ, ghé Hoa Quán (do con Chú Biên làm chủ), thưởng thức tô cháo cá và ly bia . “Mát cả rọt !” . 22 g , sang tới Thọ Ninh, vào chào thăm Cha xứ, xin lễ và tặng quà cho Giáo xứ. Sau đó, bà con (thêm Ông Lương và Chú Căn ra trước bằng máy bay và mấy người ở Thọ Ninh) bàn công việc ngày hôm sau. 23 g 30 mới lên giường. Cha xứ dành cho đoàn hai phòng : một phòng trên lầu và một phòng ở tầng trệt có máy điều hòa không khí.
3. Cội nguồn Thọ Ninh : Rời nhưng không quên.
N.3 . Mới 4 giờ sáng, chuông nhà thờ Thọ Ninh đã ngân vang. 4 giờ 30, thánh lễ cầu bình an cho Giáo xứ quê hương, theo như ý chỉ đoàn đã xin. Giáo xứ đang tiến hành làm trần nhà thờ nên bàn thờ được dời ra tiền sảnh còn giáo dân thì đứng dưới sân. Sau thánh lễ là bữa điểm tâm tại nhà em Tuấn với đặc sản là xôi đậu đen với trứng gà chiên và bánh ướt. Rồi mọi người kéo nhau ra nghĩa trang.
Trước mộ Tổ tiên, mọi người đã dành vài phút thinh lặng, tưởng nhớ đến Tổ tiên và thân nhân đã qua đời. Kế đến là phần đọc kinh, lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Sau đó, Bác Vương Đình Bình, đại diện cho Tộc trưởng , đã thay mặt tất cả bà con bày tỏ tâm tình quý mến với Tổ tiên và xin tạ lỗi với Tổ Tiên vì trên 50 năm qua, con cháu có phần thiếu sót trong việc kính viếng và chăm sóc nơi an nghỉ của các Ngài, xin các Ngài lượng thứ. Nay, vì những lý do khách quan và “muốn chuộc lại phần nào những lỗi đó, con cháu xin kính mời Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ và các Vị Tiền nhân về an nghỉ nơi những Thánh địa mà con cháu đã chuẩn bị để đón các Ngài là Thánh địa ở Châu Sơn – Banmêthuật và Thánh Mẫu – Đà Lạt để con cháu gần gũi mà thăm viếng, chăm sóc, bảo quản ngôi nhà các Ngài an nghỉ theo như sự mong muốn của con cháu từ lâu […] Xin Quý Vị vui lòng chấp nhận và phù hộ cho mọi việc êm xuôi tốt đẹp”. Tiếp theo, Cụ Thủ chỉ Vương Đình Lương dâng lên Chúa lời tạ ơn vì “ muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” và tạ ơn Tổ tiên đã sinh thành và dưỡng dục các thế hệ con cháu trong đức tin công giáo và cũng xin cung thỉnh hài cốt Tổ tiên vào Nam . Sau đó, mọi người đã cung kính niệm hương kính vái và cắm nhang quanh ngôi mộ.
Sau phần tưởng niệm và cầu nguyện trang nghiêm, sốt sắng, Chú Chữ đã hướng dẫn nghi thức bốc mộ và cách thức tiến hành tuần tự các bước , vừa bảo đảm nhanh gọn và chính xác.
6 giờ 30 ngày thứ Hai, 14-6-2010, những nhát búa đầu tiên do tộc trưởng (nội địa) Vương Đình Bình và cụ Thủ chỉ Vương Đình Lương, gõ vào tháp mộ. Kế đó, mỗi người một tay, luân phiên thay nhau, bốc gỡ phần mái của ngôi mộ. Xúc hết lớp cát thì chạm đến mái mộ lần trước, khi cải táng năm 1988. Đến phần này, chỉ gõ nhẹ là bể nên bà con đều làm cẩn thận. Sau lớp mái này, bắt đầu xuất hiện các tĩnh. Tĩnh đầu tiên được đưa lên là của Cụ Cố Vương Tiên Công, rồi đến tĩnh của Cụ Cố Vương Đình Quế. Hai tĩnh này được các Bác chi Đại tôn tiếp nhận, làm sạch và quấn vải, dán bảng tên rồi cho vào thùng cac tông, bên ngoài có đề tên. Tuần tự các tĩnh khác cũng được đưa lên và xử lý như vậy.
Trong ngôi mộ chung, có ba cái tĩnh chỉ đề tên thánh chứ không có tên gọi, ở trong tĩnh cũng như ở ngoài bia mộ. Qua bàn luận tại chỗ, nhất là dựa trên thông tin (do nhớ lại) của Cụ Thủ chỉ Vương Đình Lương (91 tuổi, còn mạnh khỏe và minh mẫn) và Bác Vương Đình Bình vẫn luôn ghi lòng tạc dạ lời trối của Bác Vương Đình Huệ, một trong những người thực hiện cải táng năm 1976, bà con đã nhất trí kết luận về ba tiểu này như sau :
a/ Tĩnh mang tên thánh Giuse, nằm chung phần mộ với Cụ Vương Đình Bá, được xác định là GIUSE VƯƠNG ĐÌNH HAI, là người con thứ hai của Cụ Bá, sau O Minh là Chị Cả. Bác Hai là Trưởng Nam của Cụ Bá, là anh của Cụ Vương Đình Thông. Giuse Vương Đình Hai đã mất khi còn nhỏ . Theo sổ rửa tội tại Giáo xứ, Vương Đình Hai sinh ngày 26-11-1907.
b/ Tĩnh mang tên thánh Anna, nằm cạnh mộ phần O Vương Thị Cửu, được xác định là ANNA VƯƠNG THỊ MƯỜI, em của O Cửu và mất sớm sau khi chào đời. Theo sổ rửa tội tại GX Thọ Ninh, Vương Thị Mười sinh ngày 05-05-1924.
c/ Tĩnh mang tên thánh Maria : Theo lời trối lại của Bác Vương Đình Huệ, người thực hiện cải táng năm 1976, thì trong tĩnh này đựng chung hài cốt của hai trẻ nhỏ là chị và em của Bác Bình. Hai trẻ này là ANNA VƯƠNG THỊ CẢNH và MARIA VƯƠNG THỊ HÓA.
Như vậy, tất cả các hài cốt đều được xác định danh tính và mỗi Chi nhận về phần của mình .
CHI TRƯỞNG :
1- Vương Tiên Công 2- Vương Đình Quế
3- Vương Đình Liệu 4- Trần Thị Liệu
5- Vương Đình Mai 6- Nguyễn Thị Mai
7- Vương Đình Hòe 8-Vương Đình Tam
9- Vương Thị Tám (Bà Kỳ Sâm) 10- Vương Thị Cảnh
11- Vương Thị Hóa
CHI THỨ :
1- Vương Đình Đào 2- Bà Lê thị Đào (Bà Vương Đình Đào 1)
3- Bà Vương Đình Đào (2) 4- Vương Đình Bá
5- Bà Lưu Thị Tư 6- Vương Thị Minh
7- Vương Thị Cửu 8- Vương Thị Mười
9- Vương Đình Chương 10- Vương Đình Kỳ
11- Vương Đình Sum 12- Bà Dương Thị Lý (Bà Vương Đình Lương)
Sau khi hoàn tất bốc mộ, bà con đã dọn gọn gàng lại mặt bằng, chuyển các tĩnh lên xe và đưa về Nhà Truyền thống của Giáo xứ, sau nhà thờ.
Nhân dịp này, bà con của Cụ Lưu Đồng, từ Hương Sơn, cũng đã về Thọ Ninh, bốc mộ và cải táng di cốt Cụ Lưu Đồng về tại Gíao xứ Kẻ Mui, Hương Sơn .
Sau một bữa cơm huynh đệ và chút nghỉ ngơi, bà con vào lại Phòng Truyền thống để chăm sóc lại các tiểu cho chắc chắn và gọn gàng, thay thế các tĩnh bị bể, chuẩn bị cho chuyến hành trình dài về Phương Nam.
17 giờ, tại nhà em Tuấn, một bữa cơm thân mật, như một lời cám ơn và như một lời từ biệt, với sự hiện diện của Cha Xứ Thọ Ninh Nguyễn Bá Lộc, Cha Trần Đức Hồng và Cha Phạm Bá Đình là hai cha cháu của Họ tộc, cùng đông đủ bà con ở Thọ Ninh và vùng lân cận, khoảng 50 người. Trước bữa ăn, Cha xứ đã nói lên tình cảm dành cho Họ tộc và bày tỏ sự luyến tiếc việc ra đi này vì e rằng một khi không còn gốc rễ tại đây, bà con sẽ quên quê hương. Trong phần đáp từ, Chú Chữ đã đặc biệt cám ơn Cha Xứ và gia đình Giáo xứ Thọ Ninh về bao ân nghĩa đã dành cho Họ tộc từ bao đời nay và cam kết rằng tuy rời xa Thọ Ninh nhưng bà con Họ tộc Vương Đình sẽ không bao giờ quên cội nguồn Thọ Ninh của mình, không chỉ bằng tâm tưởng, lời cầu nguyện mà còn bằng hành động cụ thể. Chú Chữ cũng đã cám ơn bà con Họ tộc ở Thọ Ninh và vùng lân cận đã nhiệt tình tham gia công việc này. Chú Chữ cũng thú nhận và xin lỗi mọi người, tuy đã bước vào tuổi “lục tuần nhi nhĩ thuận” nhưng đôi khi cũng còn nóng nảy, gay gắt, làm phiền lòng người này người khác.
20 giờ, thánh lễ cầu cho Tổ tiên và thân nhân Họ tộc. Theo chương trình, tối 14-6, có buổi đọc kinh chung và thánh lễ cầu hồn sẽ làm vào sáng 15, trước khi lên đường nhưng do một biến cố đột xuất : có người qua đời trong giáo xứ và sáng 15-6 sẽ cử hành lễ an táng , do vậy thánh lễ cầu cho Tổ Tiên được cử hành tối 14-6. Thánh lễ đồng tế gồm ba Cha, Cha Đình chủ tế, Cha Hồng giảng. Trước khi vào bài giảng, Cha Hồng bày tỏ tâm tình cám ơn Cha Xứ đã thay đổi chương trình mục vụ (đi Kẻ Tùng mừng lễ bổn mạng Thánh Antôn) để tham dự đồng tế và các giúp đỡ khác cho bà con Họ tộc. Cha Hồng cám ơn Giáo xứ Thọ Ninh là cây đại thụ mà Họ tộc Vương Đình chỉ là một cành dựa vào đó mà lớn lên và phát triển. Do những lý do riêng, Họ tộc phải di dời hài cốt Tổ tiên nhưng tin rằng việc này chẳng những không làm cho bà con lãng quên quê hương mà còn tiếp tục yêu mến và phục vụ Giáo hội như truyền thống của giáo dân Thọ Ninh. Nhân dịp lễ cầu hồn này, Cha Hồng đã nêu lên ý nghĩa của cuộc sống và sự chết : Cuộc sống là ân huệ Chúa ban và Chúa muốn chúng ta dùng cuộc sống trần gian nay để tìm về sự sống đời đời . Do vậy, điều quan trọng là phải có những chọn lựa đúng, chọn đúng đường và quyết tâm đi theo, cho dù khó khăn, sóng gió. Và về mặt này, các Tổ tiên chúng ta đã nêu gương sáng cho chúng ta. Nhiệm vụ của chúng ta là cương quyết noi theo.
Trước khi kết thúc thánh lễ, Cha xứ đã ngỏ lời cám ơn những tình cảm tốt đẹp mà Họ tộc Vương Đình đã dành cho Giáo xứ mà cụ thể là món quà ý nghĩa 20.000.000$ , góp phần vào công trình làm trần nhà thờ. Cha xứ hy vọng rằng sự ra đi hôm nay không phải là một chia tay vĩnh viễn và bà con vẫn luôn hướng lòng về quê hương .
Cụ Thủ chỉ Vương Đình Lương đã thay mặt cho bà con dâng lên Cha xứ tâm tình tri ân đặc biệt và cam kết rằng bà con Họ tộc nội ngoại Vương Đình sẽ luôn nhớ đến quê hương Thọ Ninh, là nguồn cội của mình, là một giáo xứ nổi tiếng về ơn gọi linh mục tu trì . (Trong cuộc nói chuyện, Cha xứ cho biết với việc Thầy Đậu Tiến Sỹ được phong chức Linh mục ngày 19-6-2010, thì đây là LM thứ 87 của Thọ Ninh).
4. Hành hương La Vang
N.4 - Bốn giờ sáng ngày 15-6, bà con đã tề tựu ở Phòng Truyền thống. Lòng bồi hồi xúc động và càng xúc động hơn khi Cha xứ Nguyễn Bá Lộc cũng có mặt. Trong bóng tối mờ (trời chưa sáng, điện thì cúp), Cha xứ đã làm nghi thức tiễn đưa các hài cốt và chúc lành cho chuyến đi . Sau đó, các tĩnh được chất lên xe và khởi hành lúc 4g30 .
Trên xe vẫn 9 người, chỉ với một khác biệt : Chú Lương thay chỗ O Mỹ. Qua thị xã Hà Tĩnh, đến Cẩm Xuyên, dừng điểm tâm. Ai cũng mua vài gói đặc sản kẹo Cu Đơ về làm quà. Chẳng mấy chốc đến Đèo Ngang, không phải leo đèo vì đã có hầm chui. Rồi Sông Gianh, một thời phân tranh Trịnh – Nguyễn, rồi Sông Bến Hải, một thời chia cắt Nam – Bắc. 11g30, Đoàn đã ghé vào viếng Đức Mẹ La Vang và nghĩ rằng Tổ tiên và thân nhân cũng hài lòng được một lần hành hương tập thể về nơi linh thánh này .
Xe không đi qua Thành phố Huế nhưng theo đường tránh ở ngoại vi, chạy thẳng vào Đà Năng, chui qua hầm Hải Vân, đến ngã ba Hòa Cầm, rẽ phải về hướng Tây, tìm lại đường Trường Sơn Đông . 17g15, đến Thạnh Mỹ và gắng chạy thêm một đoạn, đến Khâm Đức. Đoàn ăn cơm tối và qua đêm tại Nhà nghỉ Phước Sơn. Ai cũng nhắc đến Dòng Phước Sơn của Bác Lâm . Từ hôm khởi hành đến nay thì hôm nay bà con mới được thư thả xem “ WƠ CÚP” (Bóng Đá Nam Phi) và được ngủ dài giờ hơn một chút .
5. Châu Sơn : Quê hương mới của Họ tộc
N.5 . Ngày 16-6, Năm giờ rưỡi, xe khởi hành. Như mấy ngày vừa qua, sau khi xe chạy một quãng, bà con đọc kinh cầu cho Tổ tiên và xin cho chuyến hành trình được bình an. Điểm tâm tại Dakglei. Ăn trưa ở Chư Pưh, một Huyện mới của Gia Lai. Kế đến là các địa danh quen thuộc (một thời, trên các bản tin chiến sự) : Ngọc Hồi, Tân Cảnh, Dakto, Kontum, Pleiku. Trong thành phố Pleiku, xe lại lạc đường mất một quãng khá xa nhưng rồi cũng tìm ra được đường 14, xuôi về Banmê.
14g45, xe vào đến sân nhà Bác Vương Đình Bình. Một số bà con đã đợi sẵn. Bác Bình đã ngỏ lời chào đón Tổ tiên về quê mới và thỉnh mời Các Vị vào nhà. Bà con đã đọc kinh cầu cho Tổ tiên và niệm hương kính vái, sau đó, chuyển các tĩnh vào nhà. Tại đây, bà con đã trang trí lại các tĩnh cho thêm phần đẹp đẽ và xứng hợp, rồi bầy lên bàn thờ dọn sẵn. Bà Linh và Cha Khởi đến sau, đã vào niệm hương và cầu nguyện.
18g30 : Cơm gia đình.
20g00 : Buổi kinh tối long trọng và sốt sắng, có cả ca đoàn Thánh Tâm tham dự, với đông đủ bà con Châu Sơn, Trung Hòa, Hà Lan và nơi khác. Trong phần dẫn nhập, anh ca trưởng Ca đoàn Thánh Tâm chia sẻ : “ Đức tin Kitô giáo không bao giờ nhìn cái chết như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý. Sự hiện diện ở nơi cõi tạm luôn nhắc nhở chúng ta về cùng đích chắc chắn của mình, mời gọi chúng ta sống một đời cho ý nghĩa, để cái chết không phải là một chấm dứt mà là hoàn tất hành trình Vượt qua để trở về cội nguồn yêu thương”. Nhiều kinh quen thuộc của Giáo phận Vinh được mọi người đọc lên sốt sắng, nhiều bài hát vang lên, nhiều tâm tình cầu nguyện và cả chia sẻ Lời Chúa. Sau buổi kinh, bà con chia nhau chén trà và miếng bánh, trong thân tình.
N.6 . Ngày 17-6 . Khi trời còn mờ tối, điện lại bị cúp, lúc 4g00, bà con đã qui tụ về nhà Bác Bình, quanh di cốt Tổ tiên. Vài phút tĩnh lặng, mặc niệm. Sau phần đọc kinh, bà con niệm hương và tuần tự rước di cốt lên xe tang. Thánh giá nến cao đi đầu, kế theo là đoàn người tĩnh lặng . Khi xe tang đến nhà thờ thì Cha Khởi đã đứng đợi sẵn trước tiền sảnh, và đội kèn đứng gần kề đang thổi những bản nhạc đón tiếp. Các di cốt được đưa vào nhà thờ, tiến gần đến cung thánh.
Trong phần dẫn lễ, Ông Nguyễn Ngọc Minh, Chủ tịch HĐGX đã cho biết về việc cải táng như sau: “ Tại quê nhà Thọ Ninh, hai Chi họ Vương quen gọi là Chi Cố Liệu và Chi Cố Giáo có một nghĩa trang riêng. Năm 1954, thời cuộc thay đổi nên tất cả các phần mộ phải cải táng. Con cháu Họ Vương quy tập hài cốt Tổ tiên về Mộ tộc riêng (Ghi chú 1). Nhưng phần vì Bắc Nam cách trở, phần vì hằng năm thường xuyên mưa lụt nên cuối cùng, lần thứ ba, con cháu quyết định cải táng Ông Bà Tổ tiên về giáo xứ nhà để gần gũi chăm sóc hương khói” . Ông cũng dành những tâm tình tốt đẹp cho Họ tộc : “ Kế thừa di sản đức tin của tiền nhân, vườn hoa thiêng liêng của Họ tộc Vương Đình cũng đã đóng góp nhiều hương sắc ,đó là hiện nay đang cống hiến cho Giáo hội 11 Linh mục, 7 nữ tu và 4 dự tu (Ghi chú 2). Họ tộc duy trì ngày họp mặt truyền thống hằng năm vào ngày Rằm tháng Giêng Âm lịch, con cháu khắp nơi tập trung về một nơi chốn để gặp gỡ, tâm tình sẻ chia và phát thưởng cho con cháu vào Đại chủng viện và các cháu tốt nghiệp đại học” (Ghi chú 3).
Thánh lễ đồng tế gồm năm Linh mục : Cha xứ Vũ Thanh Lịch, Cha Phó Đinh Công Tiến, Cha Vương Đình Khởi, Cha Trần Đức Ninh, Cha Trần Ngọc Anh, thêm Thầy Phó tế Nguyễn Văn Ngọc.
Trước khi cử hành thánh lễ, Cha Khởi đã cám ơn Cha xứ và Giáo xứ Châu Sơn đã đón nhận Tổ tiên Họ tộc Vương Đình về an nghỉ nơi đây. Chính vì sự kiện này, Châu Sơn trở thành quê hương mới của Họ tộc. Trong bài giảng , Cha Khởi nhấn mạnh lại rằng vùng đất được chúc phúc Châu Sơn từ nay, trở thành quê hương mới của Họ tộc vì Tổ Tiên đang an nghỉ nơi đây và nhiều gia đình Chi Trưởng đã sinh sống tại đây từ hơn nửa thế kỷ nay. Tuy có quê hương mới nhưng chúng ta cũng có bổn phận nhớ đến quê hương gốc Thọ Ninh. Tiếp theo, dựa theo Lời Chúa (1Tx, 4, 13-18) và Ga 14, 1-6 (Ghi chú 4), Cha Khởi đã diễn giảng việc Chúa Giêsu dọn chỗ cho chúng ta, thứ nhất là qua chuyển cầu cùng Chúa Cha cho chúng ta và ban Thánh Thần cho chúng ta . Thứ hai là qua các mục tử hữu hình (Đức Thánh Cha, các Giám mục, Linh mục …), bằng các giáo huấn và các bí tích …Chính việc Chúa Giêsu dọn chỗ cho chúng ta ở trong Nước Hằng sống , ban cho chúng ta một niềm tin và một niềm hy vọng về hạnh phúc vĩnh cửu bên nhau, sum vầy với các Tổ Tiên và thân nhân đã ra đi trước chúng ta.
Sau lời cám ơn của Cụ Thủ Chỉ Vương Đình Lương, bà con rước di cốt ra nghĩa trang.
Tại đây, các di cốt Tổ tiên được đặt trước bàn thờ. Sau khi Cha Khởi tiến hành nghi thức làm phép gia mộ, bà con cầu nguyện cho Ông Bà Tổ tiên. Tiếp đó, Bác Vương Đình Phong, Đại diện cho Chi Đại tôn đã ngỏ lời cám ơn. Xin cám ơn Chúa về ân huệ đoàn tụ vì Tổ Tiên nay đã gần kề con cháu. Theo Bác Phong, “sự gần gũi này là cơ hội thôi thúc cháu chắt dậy mà đi loan báo Tin Mừng và đem Chúa đến cho mọi người bằng nhiều phương thế ”. Bác Phong cũng xin cám ơn Cha Xứ, Ban Mục vụ Giáo xứ và bà con đã giúp đỡ Họ tộc trong công việc trọng đại này. Tâm tình cảm tạ và tri ân được mọi người thể hiện sốt sắng qua bài thánh ca “ Xin dâng lời cảm tạ…”.
Kế đó, các di cốt được rước đến gia mộ và từng cái tĩnh được long trọng đặt vào gia mộ dọn sẵn. Phần gia mộ rất đơn sơ nhưng rất ý nghĩa, trông như một chung cư cao tầng, trong đó có tới sáu thế hệ cùng an nghỉ, “ Lục Đại đồng đường”, với 11 Vị : Trên cùng là Cụ Tổ Vương Tiên Công (đời 1) và Cụ Vương Đình Quế (đời 2), như cái nóc, như mái nhà che chở và như nguồn phúc lộc cho hậu duệ là Cụ Vương Đình Liệu (đời 3), Cụ Vương Đình Mai, Vương Đình Hòe, Vương Thị Tám (đời 4), Cụ Vương Đình Tam (đời 5) và các Bác Vương Thị Cảnh, Vương Thị Hóa (đời 6). Được biết, nghĩa trang Châu Sơn còn là nơi an nghỉ của Cụ Vương Đình Khanh, Vương Đình Đường, O Vương Thị Hòe (O Oanh), Bác Vương Đình Châu, Vương Đình Loan và Chú Vương Đình Dương.
7g30, bà con chung nhau tình huynh đệ qua bữa tiệc sáng. Tuy là tiệc sáng nhưng là một bữa ăn thịnh soạn, no cả ngày .
Sau hơn 2/3 chặng đường khá vất vả, mỏi mệt, Đoàn được một quãng thời gian nghỉ ngơi. Chú Lương và Thao đi Trung Hòa thăm bà con. Cha Khởi ra Tòa Giám mục thăm bạn bè, Chú Chữ lòng vòng Châu Sơn thăm các Bác…
20 giờ : Bà con qui tụ lại tại nhà Bác Bình, quanh các di cốt của Chi Thứ và cùng nhau đọc kinh cầu nguyện cho Tổ tiên (do Chị Truyền chủ sự). Cha Khởi chia sẻ về tình Phụ tử của Thiên Chúa : Thiên Chúa là “nguồn mọi tình phụ tử ở trên trời và dưới đất” , vừa có trái tim người Cha vừa có trái tim người Mẹ. Ngài yêu thương chúng ta rất mực và cũng muôn chúng ta yêu thương nhau mà Đạo Hiếu là một trong các thể hiện cao đẹp. Chú Chữ, với tư cách người Điều phối, đã chân thành cám ơn các Bác Chi Đại tôn đã đóng góp tiền của, công sức và tham gia tích cực vào công cuộc cải táng trọng đại này; đã đón tiếp di cốt Tổ tiên một cách long trọng, tổ chức các buổi đọc kinh và thánh lễ sốt sắng; đã tái an táng Tổ tiên tại nghĩa trang một cách trang nghiêm ; và đã đón tiếp bà con các nơi về một cách chu đáo và thân tình. Chú Chữ cũng chân thành xin lỗi về các thiếu sót , các va vấp trong quá trình thưc hiện, xin bà con lượng thứ cho Ban Tổ chức. Và nhắc lại xác quyết của Cha Khởi trong thánh lễ sáng nay : Châu Sơn là quê hương mới của Họ Tộc nên nơi đây sẽ là một chốn đi – về của nhiều người trong các Chi Tộc, mỗi khi muốn kính viếng Tổ Tiên.
6. Thánh Mẫu : Tứ đại đồng đường
N.7 Ngày 18-6. Sau thánh lễ và điểm tâm, lúc 6g45, tại nhà Bác Bình đã diễn ra nghi thức tiễn đưa các di cốt của tiền nhân Chi Tiểu tôn : Sau phần đọc kinh, bà con đã niệm hương và anh Phong đã thay mặt Chi Trưởng , nói vài lời tâm sự, tiễn đưa các vị. 7 giờ, xe chuyển bánh. Trên xe có Ông Lương, Bà Linh, Bác Hoàn, Bác Tịnh, Cha Khởi, Xơ Kim, cháu Vương Tử Thiên (con Bác Châu), O Anh, Thao, Chữ. Đi ngang Phú Sơn, đón thêm vợ chồng Thủy – Liên (con Bà Hy) và cháu Tới (con Tuấn). Cơm trưa tại Lâm Hà. 13 g 30, xe về tới Thánh Mẫu. Trước nhà Cô Ngọc, một số bà con đã đứng đợi sẵn. Chú Vương Đình Cam, Thủ Chỉ của bà con vùng Đà Lạt, đã tâm tình vài lời với Tổ Tiên, chào đón Tổ tiên và kính mời quý liệt vị vào nhà. Sau phần niệm hương và đọc kinh, các tĩnh được bọc vải, ba màu khác nhau : màu đỏ là của Cụ Cố Vương Đình Đào và hai phu nhân. Màu vàng là của Ông Bà Cụ Cố Vương Đình Bá và màu trắng là của bậc cháu chắt Cụ Đào (Bác Hai, O Cửu, O Mười, Bác Chương, Kỳ, Sum). Khăn tưởng niệm cũng được phát cho mọi người và cũng gồm ba màu : bậc cháu Cố Đào (Ông Lương, Cha Bích, O Dong, Bà Linh, Ông Cam) khăn màu trắng; bậc chắt (Cha Khởi, Cô Ngọc, Bác Linh…) khăn màu vàng và bậc chút khăn mầu đỏ (cháu Hinh, cháu Tâm…).
18 giờ thánh lễ tại gia cầu cho Tổ Tiên, do Cha Khởi và Cha Bích đồng tế . Dựa trên Lời Chúa (Ep 6, 1-4 và Lc 2, 51-52) Cha Khởi đã giảng về Đạo Hiếu mà Chúa Giêsu là gương mẫu tuyệt vời. Ngài mời gọi chúng ta bắt chước theo Ngài, là người “hằng vâng phục các ngài” (Lc 5, 51) và “ Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa vì đó là điều phải đạo” (Ep 6, 1).
N.8 Ngày 19-6 . Đang khi ngồi ăn sáng với bà con thì Chú Chữ nhận được cú điện thoại của Cha xứ Phan Công Chuyển, báo tin là ngài chắc chắc chắn về Thánh Mẫu trước 10 giờ 30 hoặc sớm hơn nên yêu cầu bà con chuẩn bị sẵn và có mặt tại nghĩa trang trước 10 giờ. Ngài thông cảm với phái đoàn hơi vội vàng với chuyến về Xuân Sơn, mong sao càng sớm càng tốt. (Ghi chú 5). Bà con ai cũng phấn khởi với sự chiếu cố nhiệt tình của Cha Xứ.
Buổi cầu nguyện và tưởng niệm Tổ tiên của bà con bắt đầu lúc 8 giờ. Theo lẽ do Chú Vương Đình Cam chủ sự nhưng đến phút chót, Chú thoái thác vì phải lo những chuyện vòng ngoài đang rất gấp rút, nhất là công việc chuẩn bị tại nghĩa trang. Chú Chữ đành phải thế vai. Ngoài phần đọc kinh và lần tràng chuỗi 50, có phần chia sẻ tâm tình với Tổ Tiên, gợi nhớ lại công ơn và gương sáng của Tổ Tiên. Trong các lời tâm tình của Cha Bích, Ông Lương, Bà Linh, Chú Cam và Bác Tịnh, đều toát lên tâm tình tạ ơn Chúa về hồng ân sự sống Chúa đã ban cho Tỏ tiên, tiếp nối qua các đời con cháu và nhất là tâm tình tạ ơn Chúa về ân huệ đức tin, được lưu truyền cho hậu thế. Các người đại diện này đều nêu lên cam kết bảo toàn và phát huy đức tin và cố gắng sống theo gương sáng của các bậc Tổ tiên. Buổi đọc kinh kết thúc bằng bài hát “ Xin cảm tạ Cha, xin cám ơn Trời đã ban cho đời con có Mẹ Cha”.
Sau một khắc giải lao, 9 giờ 15, rước di cốt lên nghĩa trang. Cha xứ và Cha Phó đã đứng đợi sẵn tại lễ đài mới xây dựng xong. Cha xứ Phan Công Chuyển, với tư cách người chủ của gia đình Giáo xứ Thánh Mẫu bày tỏ niềm vui được đón nhiều thành viên của Họ tộc Vương Đình về an nghỉ tại nghĩa trang này. Sự hiện diện này sẽ gia tăng sự hiệp thông và tình liên đới. Thánh lễ đồng tế gồm bốn Cha: Cha xứ Phan Công Chuyển, Cha Phó Cao Thái Bình, Cha Bích và Cha Khởi. Sau thánh lễ và phần nghi thức (cầu nguyện và làm phép …), các di cốt được đặt vào các huyệt mộ dọn sẵn. Điều đặc biệt là từ hai ngôi mộ song song của Ông Bà Cụ Vương Đình Thông, Cha Xứ đã có sáng kiến cải biến thành một Ngôi Mộ tập thể, gồm bốn thế hệ, nằm chung dưới một mái nhà theo truyền thống và tinh thần cao đẹp “Tứ Đại Đồng Đường” của Phương Đông. Cụ thể, trong ngôi mộ này, quây quần bên Cụ Tổ Vương Đình Đào (đời 1) là Cụ Vương Đình Bá (là con, đời hai), là Vương Đình Hai, Vương Đình Thông, Vương Thị Minh, Vương Thị Cửu, Vương Thị Mười (là cháu, đời 3) và Vương Đình Chương, Vương Đình Kỳ, Vương Đình Sum (là chắt, đời 4). Mái ngôi mộ được lợp bằng mười tấm đá hoa cương ba màu khác nhau mà có người đọc ra là tượng trưng cho Mười Điều răn của Chúa mà Tổ Tiên hằng tuân giữ và còn là dấu chỉ hướng về sự Thập toàn, viên mãn, báo trước sự Hội ngộ Cánh chung.
Thánh lễ và nghi thức tái an táng kết thúc lúc 11 giờ. Bà con kéo nhau về hội trường Giáo xứ và bữa cơm Họ tộc bắt đầu lúc 11 giờ 30. Chú Chữ đã ngỏ lời cám ơn Giáo xứ Thánh Mẫu đã đón nhận di cốt của Tổ tiên và thân nhân Họ tộc, cách riêng cám ơn Cha Xứ đã nhiêt tình lo toan nhiều bề cho công việc cải táng và đặc biệt về sáng kiến ngôi mộ Tứ đại đồng đường. Họ tộc xin ghi khắc lời dạy bảo của Cha về lòng hiếu thảo, tình huynh đệ, sự hiệp thông và yêu thương trong Họ tộc.
12 giờ 30, một nghi thức ngắn gọn, tiễn di cốt Bà Vương Đình Lương lên đường, hướng về Xuân Sơn.
7. Xuân Sơn : gốc rễ của tương lai
12 giờ 40, xe chuyển bánh, rời Thánh Mẫu, Đà Lạt, xuôi theo Quốc lộ 20, đến Ngã Ba Dầu Giây, đến Quốc lộ 1, hướng ngược ra Bắc, đến Ngã Ba Tân Phong, rẽ về hướng Bà Rịa. Trên xe còn Ông Lương, Bà Linh, Cha Khởi, Xơ Kim, cháu Tử Thiên, O Anh, Thủy, Thao, Chữ. 18 giờ 30, dùng cơm tối tại Ngãi Giao và về đến Xuân Sơn lúc 19 giờ 30. Khá đông con cháu đã chờ sẵn. Từ ngoài cổng, di cốt Bà Lương được rước vào nhà, cái tĩnh được bọc vải đỏ và để vào hòm kính. Sau lời chào đón và bày tỏ tâm tình cùng Mẹ của Chú Trưởng Nam Vương Đình Sanh, bà con cùng đọc kinh. Phần Lời Chúa nói về ý nguyện của Ông Giuse di trối cùng con cháu đưa hài cốt của mình ra khỏi Ai Cập, hàm chứa rằng đó cũng là ý nguyện của Bà Lương và việc làm hôm nay cũng là trách nhiệm của con cháu .
N.9 – 20-6-2010 . Thêm một số con cháu từ Sài gòn về . 8 giờ, buổi lễ tưởng niệm chính thức bắt đầu. Trong bài “điếu văn”, Chú Vương Đình Căn đã nhắc lại tình thương của mẹ và các cơ cực mà mẹ gánh chịu vì đoàn con : “ Vì thời cuộc và một lịch sử khắc nghiệt tàn ác, họ đã đuổi mẹ và chúng con ra khỏi nhà và lột hết của cải […] Thầy chúng con đã phải đi tù […] Một mình mẹ phải đương đầu với cuộc sống đầy gian khổ trong cô đơn nhưng không tuyệt vọng […] Mẹ đã chăm sóc chúng con cả phần hồn, phần xác […] chúng con chưa kịp báo đáp thì mẹ đã ra đi”. Sau phần kinh nguyện là những tâm tình của người thân và con cháu ( Ông Lương, Bà Linh, Dượng Thái, Dượng Lương, O Lam, Chữ…) mà xúc động nhất là của Út Thao, khi mẹ mất mới hơn một tuổi và còn trườn lên ngực mẹ (đã tắt thở) đòi bú. 8 giờ 30, rước di cốt lên nhà thờ.
Trong bài giảng, Cha Khởi đã nói về huyền nhiệm mẹ. Thiên Chúa là Cha có trái tim người mẹ và luôn che chở con cái của Ngài như “gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh” (Mt 23, 37) và nhắc lại rằng Bà Lương là một người phúc hậu, hiền lành, đạo đức. Cha Khởi mời gọi mọi người, nhất là các con cháu noi theo. Sau thánh lễ, bà con rước di cốt ra nghĩa trang. Tại đây, một phần mộ đã xây sẵn và sau phần nghi thức, di cốt được đặt vào phần mộ.
Cùng với việc an nghỉ của Bà Lương tại nghĩa trang Xuân Sơn, bên cạnh đã dành sẵn một mộ phần cho Ông Vương Đình Lương, có thể khẳng định rằng Chi Họ Cụ Vương Đình Lương đã chọn Xuân Sơn làm quê hương mới của mình. Chính vì vậy, trong bài giảng lễ, Cha Khởi đã nói rằng Họ tộc Vương Đình, từ một quê gốc Thọ Ninh, nay phát sinh thành ba quê mới : Châu Sơn – Banmêthuật , Thánh Mẫu – Đà Lạt và Xuân Sơn – Bà Rịa Vũng Tàu. Tuy có ba quê mới nhưng Họ tộc vẫn là một khối liên kết, hiệp thông, thương yêu và cho dù ở đâu, cũng sẽ không bao giờ quên quê hương Thọ Ninh thân thương của mình.
Bữa cơm trưa gia đình đã kết thúc công việc cải táng ở Xuân Sơn. Cũng như tại Thọ Ninh, Châu Sơn và Thánh Mẫu, Chú Chữ cũng đại diện Ban Tổ chức cám ơn bà con Xuân Sơn đã chu toàn phần việc của mình, cũng như xin lỗi về các va vấp, thiếu sót .
13 giờ, xe chuyển bánh, hướng về Sài gòn, hoàn tất chương trình cải táng của Họ tộc .
8. Thay lời kết : Một thoáng nhìn lại
Có thể nói rằng công cuộc cải táng di cốt Tổ tiên và thân nhân của Họ tộc từ Thọ Ninh về Châu Sơn, Thánh Mẫu, Xuân Sơn là một công việc duy nhất và trọng đại của cả Họ tộc, cũng là một công việc hết sức phức tạp. Phức tạp không phải vì lộ trình ngàn dặm gian nan hay vì tài chính khá cao (khoảng hai trăm triệu đồng) nhưng phức tạp vì tình cảm, vì quan niệm của mỗi người mỗi khác. Có lúc tưởng chừng bế tắc. Nhưng nay nhìn lại, chúng ta thấy rằng công việc này đã được hoàn thành một cách tốt đẹp.
Với tư cách người điều phối chương trình, tôi xin được chia sẻ vài điều tâm sự:
Trước hết, chúng ta cùng hiệp thông với nhau dâng lên Thiên Chúa, Đức Mẹ Maria , Thánh Cả Giuse lời cảm tạ tri ân vì đã thương chúc lành cho công việc này được hoàn thành tốt đẹp. Tôi tin rằng đây cũng là cảm nhận của tất cả mọi người trong Họ tộc. Vậy, chúng ta cùng nhau ghi nhớ và truyền lại cho con cháu : “ Hồng ân Thiên Chúa bao la – Muôn đời con sẽ ngợi ca ơn Người”.
Chúng ta cùng nhau ghi nhớ công ơn của Tổ tiên về ân huệ sự sống và ân huệ đức tin mà các Ngài đã ban cho chúng ta, và cụ thể về sự phù trợ mà các Ngài dành cho chúng ta trong công việc cải táng này. Tưởng nhớ đến Tổ tiên là bổn phận hằng ngày của mọi người . Ở đây, chúng tôi xin nhắc lại một quyết định chung của Họ tộc là chúng ta có một ngày tưởng nhớ đặc biệt đến Tổ Tiên vào NGÀY RẰM THÁNG GIÊNG, TẾT NGUYÊN TIÊU. Chúng tôi đề nghị : vào ngày này, bà con các vùng (Châu Sơn, Thánh Mẫu, Xuân Sơn), xin lễ cầu nguyện cho Tổ tiên, tề tựu về nghĩa trang kính viếng Tổ Tiên và tối hôm đó, đọc kinh chung ở một gia đình. Bà con ở những nơi khác, cũng sẽ xin lễ và hiệp thông cầu nguyện. Năm nào Họp Họ, chúng ta sẽ cử hành nghi thức tưởng niệm đặc biệt.
Thọ Ninh là quê hương gốc của Họ Tộc. Chúng ta sẽ không bao giờ được quên nguồn cội của mình. Điều này, đã được các đại diện Họ tộc, cụ thể là Ông Lương, Cha Khởi và Chú Chữ công khai nói với mọi người, tại nhiều nơi khác nhau. Thiết tưởng Họ tộc chúng ta cũng nên có những thể hiện cụ thể nào đó để diễn tả tâm tình này: thỉnh thoảng về thăm quê hương, đóng góp cho một công trình cụ thể nào đó của Giáo xứ hay một quỹ học bổng nho nhỏ cho các em Thọ Ninh nghèo khó và hiếu học…vv.
Xin chân thành cám ơn tất cả bà con trong Họ tộc đã cộng tác trong công việc trọng đại này, bằng cách này, cách khác. Xin cám ơn các Cha trong Họ tộc đã hằng ngày dâng lễ cầu nguyện cho công việc này. Xin cám ơn các lời cầu nguyện âm thầm và các tâm tình hiệp thông. Xin cám ơn những người trực tiếp tham gia, suốt cả lộ trình hay từng chặng đường. Xin cám ơn những đóng góp quảng đại về tài chính. Xin cám ơn những quan tâm và động viên của những người ở xa, cách riêng Bác Bà Vương Đình Khôi và Bác Vương Đình Phan. Bác Phan đã rất thiết tha hiện diện trong biến cố này và tâm sự rằng nếu làm vào năm sau, Bác sẽ chắc chắn tham dự. Xin cám ơn những ý kiến, những lời phê bình, kể cả những lời phiền trách vì tin rằng tất cả đã được nêu lên với tinh thần thiện chí, muốn cho chuyện chung được tốt đẹp. Xin cám ơn Ban Cố vấn về các ý kiến chỉ đạo. Xin cám ơn các Ban Tổ chức địa phương Thọ Ninh, Châu Sơn, Thánh Mẫu, Xuân Sơn đã nỗ lực hoàn thành công việc của mình. Quả là mỗi nơi một vẻ, mỗi nơi một cách nhưng đều chu đáo và thân tình, vừa thể hiện sự phong phú đa dạng và độc đáo, vừa nêu bật truyền thống hiệp nhất và yêu thương của Họ tộc. Xin cám ơn các cháu trẻ Nội Ngoại của Họ tộc ( cháu Bảo, cháu Phong, cháu Hinh, cháu Khiêm, cháu An Huy…) đã đưa các hình ảnh và thông tin liên quan đến công cuộc cải táng này cũng như Họ tộc nói chung, lên mạng Internet để bà con xa gần đều có thể cảm nhận một cách cụ thể và sống động hơn. Nhân đây, chúng tôi xin đặc biệt cám ơn mọi bà con đã tham gia vào việc cải táng năm 1976, năm 1998 và việc trùng tu mộ năm 2006.
Tôi đã cố gắng ghi lại càng nhiều chi tiết càng tốt của quá trình thực hiện việc cải táng này, nhấn mạnh đến nội dung tinh thần. Nhưng chắc hẳn tôi đã không thể nhớ hết, nghĩa là còn thiếu sót. Vậy, kính mong bà con chỉnh sửa, bổ sung để cho tường trình này thêm đầy đủ và chính xác. Một số hình ảnh đã được chụp và quay phim lại. Xin mời bà con vào Mục Hình Ảnh để xem thêm.
Và cuối cùng, trong một công việc trọng đại và phức tạp như thế này, kéo dài nhiều ngày, với cự ly ngàn dặm, trải qua nhiều địa phương, không thể không xảy ra các va vấp, thiếu sót. Tôi chẳng những đã không làm vừa lòng mọi người trong mọi việc mà còn có thể đã gây bất bình, phiền hà và cả khổ đau cho một số người. Tôi xin nhận tất cả các thiếu sót trong toàn bộ quá trình thực hiện về phần mình. Như tại tất cả các nơi liên quan, tôi đã ngỏ lời xin lỗi thì nay, tôi xin lỗi tất cả mọi người về các bất toàn và khiếm khuyết của mình. Tôi đặc biệt nhận thiếu sót và xin lỗi các Bác VƯƠNG KHẢ về việc không thông tin kịp thời biến cố này. Ngày 27-6, tôi đã gặp Bác Vương Khả Kim và ngỏ lời xin lỗi, nay tôi xin lặp lại nơi đây lời xin lỗi này.Tôi xin lòng khoan dung, cảm thông và tha thứ của mọi người và xin mọi người lời cầu nguyện.
Đối với tôi, đây là một biến cố một đời không thể nào quên. Một biến cố đã cho tôi trải qua nhiều cung bậc cảm xúc: một chút phiền muộn, một chút bực dọc, một chút vất vả nhưng trên hết là rất nhiều niềm vui, sự an ủi và sự bình yên. Xin chúc tụng Chúa. Xin cảm tạ Tổ tiên và xin cám ơn mọi người.
Vương Đình Chữ
Thanh Đa – Củ Chi
Từ ngày 21-6 đến ngày 15-7-2010
Ghi chú :
(1) – Xin xem phần “Mồ mả Tổ Tiên” nêu trên.
(2) – Các Linh mục thuộc Nội-Ngoại Họ tộc Vương Đình, tính đến 30-06-2010, gồm 16 vị :
Vương Đình Ái (1), Vương Đình Bích (2), Vương Đình Tài (3), Vương Đình Lâm (4),Vương Đình Khởi (5), Trần Đức Sâm (6)(con Cố Cụ Uy) , Nguyễn Huy Bắc (7)(cháu ngoại Cố Cụ Uy), Trần Đức Ninh (8)(cháu nội Cố Cụ Uy) , Trần Ngọc Anh (9)(chắt Cụ Trần Nghĩa Điền là em của Cố Liệu Bà), Phạm Bá Đình (10)(cháu nội Bà Lam, Vương Thị Thất), Trần Đức Hồng (11)(con Bà Thông Thanh, Vương Thị Ngũ), Trần Xuân Phú (12)(cháu nội Bà Báu, Vương Thị Lục), Đậu Thanh Minh (13) (chắt Bà Vương Thị Hai bên chi Cố Liệu), Đậu Xuân Đình (14) (Con Bà Vương Thị Hai), Trần Đức Vinh (15) (cháu nội Bà Thông Thanh, Vương Thị Ngũ). Có thể kể LM Lê Ngọc Điều, anh ruột của bà Lê Thị Đào (tức là phu nhân thứ nhất của Cụ Vương Đình Đào) là LM tiền bối của các LM thuộc Nội-Ngoại Họ tộc Vương Đình. Như vậy mới là 16 vị.
(3) – Người nói, tuy không nắm chính xác nhưng cũng đã biết phần nào các các hoạt động của Họ tộc : Họp mặt (nay 2 năm một lần), Quỹ Khuyến học, Quỹ Khuyến Tu….
(4) – Hai đoạn Lời Chúa (1Tx4, 13-18 và Ga 14,1-6) là tâm tình thiêng liêng mang tính chủ lực trong suốt quá trình tiến hành việc bốc mộ và cải táng và được đọc lên và suy niệm cả ở Thọ Ninh (ngoài nghĩa trang), tại Châu Sơn(trong thánh lễ ) và tại Thánh Mẫu (trong thánh lễ tại gia). Xin mời bà con đọc kỹ hai đoạn Tin Mừng này để cùng gia tăng niềm tin và niềm hy vọng về sự Phục sinh, Đoàn tụ và Hạnh phúc viên mãn.
(5) – Chương trình ở Thánh Mẫu bị thay đổi hơi nhiều so với dự kiến nhưng điều bà con khó hiểu nhất là sắp xếp chương trình (ban đầu) là ăn trước (lúc 10g30) rồi sau đó là thánh lễ (dự trù ban đầu là lúc 14 giờ, sau đổi lại 13 giờ) rồi đến nghi thức cải táng và dự kiến đoàn rời Thánh Mẫu lúc 16 giờ, điều này sẽ đưa đến việc về Xuân Sơn quá muộn, gây bất bình và phiền hà cho nhiều người. May mà cuối cùng, chương trình được đổi lại, theo tính hợp lý vốn có của nó : Thánh lễ, tái an táng và bữa cơm Họ tộc. Nhờ vậy, đoàn về Xuân Sơn không quá muộn.