Xây Dựng Đời Sống Trên Nền Tảng Đức Giêsu Kitô - Viện Phụ Vương Đình Lâm

LƯỢC ĐỒ NỘI DUNG

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG

TRÊN NỀN TẢNG ĐỨC GIÊSU KITÔ

 

DẪN NHẬP

I- ĐỨC KITÔ GIÊSU NỀN TẢNG DUY NHẤT

II- ĐỨC GIÊSU KITÔ: ĐẤNG CỨU ĐỘ

-MẠC KHẢI QUA LỜI CHÚA

-CỨU ĐỘ QUA CÁC BÍ TÍCH

III- TÌNH YÊU ĐỨC KITÔ THÔI THÚC

-THUỘC VỀ ĐỨC KITÔ

-NHẬN ĐỨC KITÔ LÀM CHÚA

IV- XÂY DỰNG TRÊN NỀN TẢNG ĐỨC KITÔ GIÊSU

-SỐNG ÂN HUỆ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC KITÔ

-NHỜ THẦN KHÍ ĐỨC KITÔ TÁC ĐỘNG

-XUYÊN QUA THÂN MÌNH ĐỨC KITÔ 

THAY LỜI KẾT : NÊN MỘT VỚI ĐỨC KITÔ

-Ở LẠI TRONG ĐỨC KITÔ

-Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU ĐỨC KITÔ

 

DẪN NHẬP

Chúa Giêsu khi rao giảng Tin Mừng, đã sử dụng các sự kiện cụ thể của đời thường. Ví như hạt giống được gieo vào đất tốt sẽ sinh hoa kết trái, nhưng nếu rơi vào sỏi đá, vì không thể đâm rễ sâu, nên bị héo khô (x. Mt 13,18-23); hoặc, như  nhà xây trên nền đá, nhà sẽ đứng vững, trái lại, nhà xây trên cát sẽ sụp đổ tan tành (x. Mt 7,24-27). Thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Côlosê, đã liên kết cả hai hình ảnh nầy, khi đề cập đến đời sống kết hợp với Chúa Giêsu Kitô: “Như anh em đã nhận Đức Kitô Giêsu làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người. Anh  em hãy BÉN RỄ SÂU VÀ XÂY DỰNG đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu, hãy dựa vào đức tin mà anh  em đã được thụ huấn và để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ”(Cl 2 ,6-7). ĐGH Bênêđictô XVI đã trích dẫn lời nầy làm đề tài  cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XXVI tại Madrid, từ ngày 16 đến 21 tháng 8 năm 2011. Quả thật là một đề tài phong phú và rất thích hợp, vì theo ý Đức Thánh Cha, nhằm đối lại trào lưu xã hội tục hoá hiện nay, với chủ thuyết duy tương đối, đang làm mất đi, hoặc xóa mờ các nguyên lý căn bản, cần thiết để định hướng đơ i sống con người. Bởi vậy, XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG TRÊN NỀN TẢNG ĐỨC KITÔ GIÊSU thật là điều khẩn thiết.

I- ĐỨC KITÔ GIÊSU, NỀN TẢNG DUY NHẤT

Nhận xét về xã hội hôm nay, ĐTC Bênêđictô XVI cũng đã tuyên bố: “Phải nhận ra rằng một trong những tác hại trầm trọng nhất của sự tục hoá là đẩy đức tin kitô giáo ra bên lề cuộc sống…. Thất bại của lối sống “như thể không có Thiên Chúa” giờ đây hiện ra nhan nhãn trước mặt mọi người. Ngày nay, thật CẦN KHÁM PHÁ LẠI ĐỨC GIÊSU KITÔ, không đơn giản chỉ là một xác tín cá nhân hay một học thuyết trừu tượng, nhưng là một con người đích thực, mà sự hội nhập của Người vào trong lịch sử có khả năng làm mới mẻ đời sống của mọi người” (ĐGH Bênêđictô XVI. TH Sacramentum Charitatis n.77). Thực trạng nầy đòi hỏi con người ngày nay, cách riêng Giới Trẻ, là tương lai của  Giáo Hội và xã hội, cần tìm đến Đức Giêsu Kitô như nền tảng cho cuộc đời mình. Đó là nhu cầu cấp thiết để cuộc  sống được thực sự triển nở và đạt tới ý nghĩa đích thực, nhờ Chúa Giêsu Kitô, Đấng không ai có thể thay thế. Quả thật, chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Vị Trung Gian duy nhất đã xác định:  “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh  em chẳng làm gì  được” (Ga 15,5). Hơn nữa, Ngài còn quả quyết: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Vì nhận thức cần gắn bó với Chúa Giêsu, Thánh Phêrô đã xác định với Ngài: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy  mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Kế tiếp, sau biến cố Phục sinh, khi “ được đầy tràn Thánh Thần,” Ngài đã mạnh mẽ tuyên xưng về Đức Giêsu Kitô: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đ được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” ( Cv 4,12). Chính Đức Giêsu Kitô là nền móng Thiên Chúa đã dự liệu, và “không ai có thể đặt nền móng nào khác, ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô” (1 Cr 3,11). Thật vậy, đối với ngôi nhà thiêng liêng của tâm hồn, cũng như tòa nhà Hội Thánh, “đá tảng góc tường  là chính Đức Kitô Giêsu…Trong Người, cả anh  em nữa, cũng được xây dựng, cùng với những người khác, thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí” (Ep 2, 20.22). Quả thật, Đức Giêsu Kitô được sai đến thế gian là để thực hiện công trình cứu độ của Thiên Chúa, Đấng tỏ mình và ban mình cho nhân loại  trong “thiên ý nhiệm mầu, là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô” (Ep 1,9).

II- ĐỨC GIÊSU KITÔ: ĐẤNG CỨU ĐỘ

Nhiệm cục cứu độ, công trình của Ba Ngôi Thiên Chúa, được thực hiện qua Chúa Giêsu Kitô:   “Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đ muốn mạc khải chính mình v tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngi (x. Eph 1,9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thin Cha (x. Eph 2,18; 2P 1,4)… Nhờ mạc khải ny, chn lý thm su về Thin Cha cũng như về phần rỗi con người, được sáng tỏ nơi Chúa Kitô” (DV, Dei Verbum 2). Chính Chúa Giêsu Kitô mạc khải về Thiên Chúa Cha và thực hiện kế hoạch yêu thương của Người dành cho chúng ta. 

1)MẠC KHẢI QUA LỜI CHÚA 

”Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Ngài mạc khải trọn vẹn về Chúa Cha và kế hoạch yêu thương cứu độ của Người (x. Ga 16,25). Quả thật, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha nhân từ (x. Lc 6,36), rất mực yêu thương chúng ta (x. Ga 16,27): Đấng đã tạo dựng chúng ta và yêu thương quan phòng cho đến từng sợi tóc (x, Lc 12,7 ). Và để diễn tả tình Cha nhân hậu, Chúa Giêsu đã cho chúng ta dụ ngôn tuyệt vời, về người con hoang đàng được cha tiếp nhận với tất cả lòng ưu ái cảm thương (x.Lc 15,11-31 ). Tuy nhiên, bằng chứng tình thương vượt mức (x. Ep 2,4 ) của Thiên Chúa Cha là trao ban Con Một chí ái cho chúng ta (x. Ga 3,16), hơn nữa, còn chấp nhận Ngài chịu hiến tế trên thập giá để cứu chuộc chúng ta (x. Rm 5,8). Về tình yêu triệt để lạ lùng của Chúa Cha, Thánh Phaolô đã suy diễn: “Đến như chính Con Một Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8, 32). Mục tiêu Chúa Cha yêu thương là để chúng ta trở thành nghĩa tử: “Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thật chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3,1). Chính vì vậy, trong Tin Mừng, đặc biệt qua bản Hiến chương Nước Trời (x. Mt ch. 5-7) và những lời tâm huyết sau bữa Tiệc ly (x. Ga ch. 13-16), Chúa Giêsu đã phác họa cho chúng ta hình ảnh cao quý con người, được phúc trở thành con Thiên Chúa, nhờ liên kết với Chúa Giêsu, Người Con chí ái của Chúa Cha. Như vậy, Chúa Giêsu là phản ảnh trung thực về Chúa Cha (x. Cl 1,15), đến nỗi Ngài đã quả quyết được rằng:  “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Đồng thời Ngài  cũng là mô hình trọn hảo cho chúng ta trong chức vị  làm con Thiên Chúa, vì Ngài “hằng làm những điều đẹp ý Chúa Cha” (Ga 8,29). Quả thật, Lời Chúa Giêsu  là “Thần Khí và là Sự Sống” (Ga 6,63),  lời trao ban  “niềm vui trọn vẹn, niềm vui của chính Ngài” (x. Ga 15,11; 16,24 ), lời dẫn chúng ta vào hồng ân hiệp thông với Thiên Chúa Cha (x. Ga 17, 13.26). Có thể nói Lịch sử thánh là một thiên tình sử, vì thế, các thánh Giáo Phụ vẫn xem Thánh Kinh là bức thư tình của Thiên Chúa  trao cho con người. Vì vậy, chúng ta chỉ có thể đi sâu vào mối tình Thiên Chúa, nếu chúng ta tiếp nhận Lời Chúa, với tâm hồn rộng mở cho tình yêu cứu độ. Quả thật, qua Chúa Giêsu Kitô,  “do tình yêu vô biên, Thiên Chúa vô hình ngỏ lời với con người như với  bạn hữu. Người đối thoại với họ, để mời gọi cho họ hiệp thông với Người” (x DV 2) (Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, GLHTCG 142).

2)  CỨU ĐỘ QUA CÁC BÍ TÍCH

Thánh Âutinh xác nhận: “Tất cả những gì đã trở nên hữu hình nơi Đấng Cứu Độ nay được chuyển sang cho các bí tích” ( Bài giảng 74,2. PL 54,398). Quả thật, để thể hiện hiệu quả công trình cứu độ, Chúa Kitô đã thiết lập các bí tích “là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng… Qua các bí tích, Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống thần linh” (GLHTCG  1131). Sau đây, chỉ đề cập tới hai bí tích căn bản là THÁNH TẨY VÀ THÁNH THỂ, được xem như biểu trưng, phát xuất từ  Trái Tim rộng mở của Đấng Cứu  Thế (x. Ga 19,34).

Trước hết, bí tích THÁNH TẨY, được thực hiện nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, theo lệnh truyền  của chính Chúa Giêsu (x. Mt 28, 19). Đây là bí tích đặt nền tảng cho toàn bộ đời sống kitô hữu: “Bí tích Thánh Tẩy không chỉ rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn làm cho người tân tòng trở nên một “thụ tạo mới”(2 Cr 5,17), thành nghĩa tử của Thiên Chúa (x Gl 4, 5-7), được thông phần bản tính Thiên Chúa (2 Pr 1,4), thành chi thể Đức Kitô (x 1 Cr 6,15; 12, 27) và đồng thừa tự với Người (Rm 8, 17), thành đền thờ Chúa Thánh Thần” (1 Cr 6, 19) (GLHTCG 1265). Tất cả đều là hiệu quả phát sinh từ ân sủng, nhờ kết hợp với Đức Kitô: “Quả thế, bất cứ ai trong anh  em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3,27). Như vậy, Bí tích Thánh Tẩy khơi nguồn  toàn bộ đời sống kitô hữu, dựa trên nền tảng Đức Giêsu Kitô.

Còn bí tích THÁNH THỂ lại  được coi là “tột đỉnh của đời sống kitô hữu” (LG, Lumen Gentium 11). “Những bí tích khác, cũng như các thừa tác vụ trong Giáo Hội và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với bí tích Thánh Thể và quy hướng về đó (x Tổng luận Thần học III, q 73 a 3 c). Thật vậy, Phép Thánh Thể chí thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội (nđd, q 65 a 3 ad 1) đó chính là Chúa Kitô…Bánh hằng sống, ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt của Người, Thịt đã được sống động nhờ Thánh Thần và làm cho người ta được sống” ( GLHTCG 1324). Vì thế, Thánh Anphongsô trình bày,  nêu cao bí tích nầy: “Vì Thánh Lễ là tổng hợp, là tóm kết việc nhập thể và cứu chuộc, mầu nhiệm hàm chứa giáng sinh, khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, những mầu nhiệm Thiên Chúa hoàn tất vì chúng ta”.(1001 Danh ngôn các thánh. Tr.76 n 327). Thánh Thể vì vậy, được gọi là bí tích tình yêu, tổng hợp tất cả tình yêu Thiên Chúa được thực hiện cho chúng ta qua Chúa Giêsu Kitô.

III- TÌNH YÊU ĐỨC KITÔ THÔI THÚC

Để thể hiện tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta, Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương chúng ta đến cùng (x. Ga 13,1). Thật lạ lùng thay, Thiên Chúa Cha đã chấp nhận cho Đức Giêsu Kitô, Con Một chí ái của Người hiến tế mạng sống để cứu độ chúng ta: “Thiên Chúa thi thố lòng yêu mến của Người đối với ta thế nầy: là Đức Kitô đã chết vì ta, ngay lúc ta còn là tội nhân” (Rm 5,8). Đó cũng là bằng chứng tình yêu cao cả nhất chính Chúa Giêsu dành cho chúng ta (x. Ga 15,13). Vì vậy, khi con người tiếp nhận tình yêu Đức Kitô đã hiến tế vì mình, sẽ cảm nhận một thúc bách rất đỗi lớn lao. Đó là điều Thánh Phaolô đã trải nghiệm và chia sẻ với chúng ta: “Lòng mến của Đức Kitô thúc bách chúng tôi, bởi đã được xác tín rằng: Một Đấng đã chết vì mọi người, vậy thì mọi người đều đã chết. Và Ngài đã chết vì mọi người, để ai sống thì đừng còn sống cho mình nữa, nhưng là cho Đấng chết và sống lại vì họ!”(2Cr 5,14-15. Bản dịch Nguyễn thế Thuấn). Như thế, “Đức Giêsu Kitô cho chúng ta thấy chân lý về tình yêu có thể biến đổi ngay cả mầu nhiệm sự chết đầy đen tối thành ánh sáng phục sinh huy hoàng” (ĐGH Bênêđictô XVI. TH Sacramentum charitatis. n. 35). Từ đó, hình ảnh Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh và phục sinh đã in dấu sâu đậm vào tâm hồn và cuộc sống của vị Tông đồ dân ngoại (x. 2 Cr 4,10). Vì  đã được tình yêu Đức Kitô chiếm đoạt (x. Ph 3,12), tâm hồn sẽ cảm nhận mình THUỘC VỀ ĐỨC KITÔ: “Thật vậy, chẳng ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,7-9). Được chứng nghiệm ân huệ tình yêu nầy sẽ khơi dậy quyết tâm tự nguyện NHẬN ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀM CHÚA mình trong cuộc sống. Đây là mầu nhiệm Tình Yêu và ân sủng của Thiên Chúa, cũng là mầu nhiệm ân huệ tự do được trao cho con người: một Thiên Chúa toàn ái và toàn năng đang kiên trì, đứng trước cửa lòng ta mà gõ và đợi chờ (x. Kh  3,20). Chính sự chọn lựa căn bản của con người, trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, là điều thiết yếu để thực sự xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu. Kinh nghiệm sống của Thánh Phaolô, cũng là kinh nghiệm của mọi tâm hồn thiện chí sống trọn mối tình Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Thánh Têrêxa Avila  diễn tả ân huệ nầy bằng những lời đầy sốt mến,  đã được LM đan sĩ Ân Đức phổ nhạc trong bài ca : “Lạy Đấng Tình Quân, con tôn thờ, “CON NAY THUỘC VỀ CHÚA, CHÚA NAY THUỘC VỀ CON…; CON XIN LÀM NÔ LỆ CỦA TÌNH YÊU, XIN  LÀM KHÍ CỤ CỦA TÌNH YÊU”…. Tâm hồn thuộc về Chúa, tôn Ngài làm Chúa đời mình, sẽ trở thành khí cụ tình yêu cứu độ của Ngài. Đó là diễn tiến của mối tình nhiệm hiệp giữa linh hồn với Đức Giêsu Kitô. Chính vì vậy, ân huệ nầy đã được Thánh Phaolô trình bày như một tiến trình sinh động của tình yêu: “Như anh  em ĐÃ NHẬN ĐỨC KITÔ GIÊSU LÀM CHÚA, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người. Anh em HÃY BÉN RỄ SÂU VÀ XÂY DỰNG đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu”(Cl 2 ,6). Vậy, chúng ta cần thực hiện việc xây dựng kỳ diệu ấy cụ thể như thế nào?

IV- XÂY DỰNG TRÊN NỀN TẢNG ĐỨC KITÔ GIÊSU

Để xây dựng đời mình trên nền tảng Đức Giêsu Kitô, thiết tưởng trước hết cần tận dụng một số nguồn ân huệ trụ cốt đã được dành sẵn cho chúng ta: 1-tiếp nhận ân huệ hiện diện của Đức Kitô; 2-hưởng ứng tác động của Thần Khí  Đức Kitô, và 3- sống liên kết gắn bó với Thân mình Đức Kitô là Hội Thánh.

1-SỐNG ÂN HUỆ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC KITÔ

ĐGH Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta: “Chiêm ngưỡng Đức Kitô đòi buộc ta biết nhận ra Người bất cứ nơi nào Người biểu lộ, trong nhiều hình thức hiện diện”…(TĐ Ecclesia De Eucharistia 6). Chúa Kitô Phục sinh đã hứa: “Này đây, Thầy ở cùng anh  em mọi ngày cho đến tận thế".(Mt 28,20). Lời hứa ấy trước hết được thể hiện cách kỳ diệu qua nhiệm tích Thánh thể, nhờ đó “Hội Thánh vui hưởng sự hiện diện này với một cường độ mãnh liệt duy nhất…Phép Thánh Thể chí thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Hội Thánh;… nơi đó Hội Thánh khám phá sự biểu lộ trọn vẹn Tình yêu vô biên của Người” (TĐ Ecclesia de Eucharistia, 1). Cũng do tình yêu, Chúa Giêsu còn hứa: hiện diện nơi tâm hồn yêu mến, qua ân sủng (x. Ga 14,23); hiện diện nơi người anh  em được chính Ngài đồng hoá với mình (x. Mt 25,40.45); và Ngài còn bảo đảm hiện diện giữa cộng đoàn quy tụ nhân danh Ngài (x. Mt 18,20). Vậy, trước hết cần ghi nhận, chúng ta được “Đức Kitô ngự trong tâm hồn, nhờ lòng tin” (x. Ep 3,17). Đây là đức tin được linh hoạt bởi tình mến; tin như thế, có nghĩa là mở rộng tâm hồn để tiếp nhận chính Chúa Kitô (x. Ga1,12). Vậy, chúng ta hãy nghe lời Thánh Phaolô cảnh tỉnh, giúp chúng ta tự kiểm điểm về sự kiện nầy: “Anh  em hãy tự xét xem mình có còn sống trong đức tin hay không?  Hãy tự kiểm điểm: anh  em chẳng nhận thấy là có Đức Giêsu Kitô ở trong anh  em sao?” (2 Cr 13,5). Cảm nghiệm Đức Kitô hiện diện trong ta sẽ giúp nhận thức Ngài hiện diện nơi người anh  em. Sự thật ấy chỉ cảm nhận được trong ánh sáng của đức tin và năng động của tình mến. Bởi vậy, trong Thánh Lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta cầu nguyện:” để được cháy lửa yêu mến và biết nhận ra Đức Kitô hiện diện trong anh chị em chúng con”. Vậy, không những phải coi người anh  em  như “cái tôi thứ hai”  của mình (GS, Gaudium et Spes  27), mà còn phải nhận ra Đức Kitô hiện diện trong họ và tự đồng hóa với họ. Đây là xác tín chúng ta có được, dựa vào lời Chúa (x. Mt 25, 40.45). Chúa Giêsu còn hiện diện ở giữa cộng đoàn, như Ngài đã hứa (x. Mt 18,20), là để làm tràn đầy và sinh động các mối tương giao trong đời sống hiệp thông. Bởi vậy, chúng ta được mời gọi “sống làm sao để cùng với người anh em kiến tạo một khoảng không gian thần linh trong đó chúng ta có thể cảm nghiệm sự hiện diện huyền  nhiệm của Chúa  Phục sinh” (VC n.42). (ĐHY. Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân Hy vọng, tr.194). Vậy, sự hiện diện đa dạng của Chúa Giêsu đã trở thành nguồn thông ban ân sủng và tinh yêu của Ngài. Cũng chính xuyên qua tình yêu, chúng ta mới chứng nghiệm được sự hiện diện ân phúc đa dạng của Chúa. Sau đây là chứng từ chia sẻ sống động của Cha Karl RAHNER, một trong những nhà thần học sâu sắc thời Công đồng Vaticano II: “Chỉ trong tình yêu, con mới tìm được Chúa….. Có tha thiết mến yêu Ngài, con mới có khả năng cởi mở lòng ra, trao phó chính mình, quên hẳn mình. Toàn bộ bản thân con, thoát khỏi những bức tường giam hãm cứng ngắc, vượt khỏi những tính toan ích kỷ đóng khung con trong sự nghèo nàn rỗng tuếch của chính mình. ... Có vậy, mọi sự nơi con sẽ biến tan trong Ngài. Ngài là Đấng lấy tình thương mà ngự trị giữa trái tim con. Đấng gần gủi con còn hơn chính mình con nữa” (Karl RAHNER.S,J,, Réo gọi vị Thiên Chúa Thầm lặng. 2003.tr.21). Và kế tiếp, tác giả đã dâng lên Chúa lời nguyện cầu: “Lạy Thiên Chúa vô biên hằng hữu, khi tình yêu được trao hiến cho Chúa, nó cho con khả năng tìm gặp được Ngài ở mọi nơi, mọi lúc, cho con vươn lên khỏi các sự vật đời nầy để tan biến trong cõi bao la vô tận là chính mình Ngài. Khi yêu mến Chúa, con tìm lại được những gì đánh mất. Tất cả biến thành bài hát ca khen chúc tụng tạ ơn trước nhan Đấng uy linh vô hạn. Những gì  chia rẽ, tình yêu Ngài quy tụ hợp nhất; những gì tản mác, Ngài thâu họp trong Ngài” (nđd, tr.98). Đó là điều Thần Khí Đức Kitô thực hiện trong tâm hồn chúng ta.

2- NHỜ THẦN KHÍ ĐỨC KITÔ TÁC ĐỘNG

Thánh Phaolô, qua kinh nghiệm sống, đã mạnh mẽ xác định: “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô” (Rm 8,9). Chính Đức Kitô Phục sinh thông ban Thần Khí của Ngài cho chúng ta (x. Ga 20,22). Để xây dựng đời mình trên nền tảng Đức Giêsu Kitô, chúng ta được Thần Khí dẫn vào mối tương giao liên kết với Đức Giêsu Kitô, vì  “Không ai có thể nói rằng: “Đức Giêsu là Chúa”, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr 12,3). Thánh Thần Chúa Giêsu phái đến  từ Chúa Cha (x. Ga 15,26), như Chúa Giêsu báo trước, “sẽ dẫn anh  em tới sự thật toàn vẹn…Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em”(Ga 16,13-14). Qua tác động của Thần Khí Đức Kitô, chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, theo ý định của Thiên Chúa Cha (x. Rm 8,29 ). Quả thật, Thánh Thần không ngừng tác động trong chúng ta (x. 2 Cr 3,18), thánh hóa con người toàn diện (x. 1Th 5,23),  từ trong nội tâm  cho đến nếp sống bên ngoài. Về nội tâm, chúng ta được mời gọi: “anh  em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh  em “ (Ep 4,23), nhờ đó  “có được cảm quan của Đức Kitô” (1 Cr 2,16). Đồng thời, Thần Khí  cũng giúp chúng ta “mặc lấy Đức Kitô” (x. Rm 13,14 ), không ngừng được  hướng dẫn (x. Rm 8,14) để trong cuộc sống, chúng ta có thể  dõi theo  “vết chân của Chúa  Giêsu Kitô” (x. 1Pr 2,21), “tiến bước trên con đường Đức Giêsu đã đi” (1Ga 2,6). Có như thế, chúng ta mới thực sự được  “bén rễ sâu và xây dựng” trên nền tảng Đức Giêsu Kitô, để sinh hoa trái trong Thánh Thần (x. Gl 5,22), mà làm vinh danh Thiên Chúa Cha (x. Ga 15,8). Như vậy, luật Thần Khí ban sự sống trong Đức Kitô (x. Rm 8,2 ), phát xuất từ Thần Khí nghĩa tử (x.Rm 8,15), cho chúng ta sống tình hiếu thảo với Cha trên trơì ; đồng thời cũng là Thần Khí hiệp nhất (x.Ep 4,3-4 ) quy tụ cùng với các anh chị em kết thành nhiệm thể Đức Kitô là Hội Thánh.

3-XUYÊN QUA THÂN MÌNH ĐỨC KITÔ

Kinh Thánh xác định về chúng ta: “Anh em là Thân thể Đức Kitô, mỗi người là một bộ phận” ( 1 Cr 12,7). Bởi vậy, lý hữu và giá trị của mỗi bộ phận hệ tại giây liên đới hỗ tương với toàn thân. Vì thế, “chi thể nào không hoạt động đúng tầm mức của mình trong việc tăng triển toàn thân đều bị coi là vô dụng đối với Hội Thánh cũng như với chính mình” (Tông đồ giáo dân 2). Bản chất liên kết hữu cơ  giữa các chi thể trở thành quy luật theo ý định và tác động của Thiên Chúa, bởi vì,  “Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12,6-7). Hơn nữa, với vai trò là Đầu liên kết toàn thân, “chính Đức Kitô làm cho toàn thân được nuôi dưỡng, được kết cấu chặt chẽ nhờ mọi thứ gân mạch và giây chằng, và được lớn lên nhờ sức Thiên Chúa ban” (Cl  2,19). Bởi vậy, để xây dựng đời mình trên nền tảng Đức Giêsu Kitô, con người cần vượt bản thân để hòa nhập với toàn thân, theo kế hoạch của Thiên Chúa. Quả thật, nơi đây, “quên mình là được gặp lại bản thân”. Tuy nhiên, nếu  con người biết TRAO trong tình liên đới hiệp thông, thì cũng phải biết NHẬN với lòng khiêm tốn tri ân. Về vấn đề nầy, ĐGH Bênedicto XVI có những suy tư rất chí lý: “Mọi nỗ lực siêu vượt bản thân mà mỗi người thực hiện thì chưa đủ, chưa phải là tất cả. Bởi lẽ, ai chỉ muốn cho đi mà  không sẵn sàng nhận lãnh, ai chỉ muốn sống cho tha nhân mà không muốn nhìn nhận là chính mình cũng sống nhờ sự cống hiến và hy sinh của người khác, những cống hiến mà mình không có quyền chờ đợi hay đòi hỏi, thì người đó thực ra cũng hiểu sai cách thế hiện hữu căn bản của con người, và do đó làm mất đi ý nghĩa đích thực của cuộc sống “cho nhau” (Josef Ratzinger, ĐGH Bênêdictô XVI, Đức tin Kitô giáo hôm qua và hôm nay. Tr.271). Nhận thức căn bản nầy là chìa khóa để thể hiện tình yêu liên đới trong lòng khiêm nhượng và tri ân, Phải chăng đó là món nợ tình thương được Thánh Phaolô nói tới: “Anh  em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13,8). Quả vậy, đức mến là sợi giây liên kết mọi chi thể thành một thân mình, đồng thời kết hợp toàn thân là Hội Thánh với Đầu là Đức Kitô. Vì vậy, Chúa Giêsu Kitô tha thiết mời gọi chúng ta “Hãy ở lại trong  tình yêu của Thầy” (Ga 15,9), vì trong tình yêu, “Chúa Kitô làm cho toàn thân  lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái” ( Ep 4,16b). Như vậy, xây dựng đời sống chúng ta được  lồng vào và gắn kết với công trình xây dựng Thân mình Đức Kitô là Hội Thánh. Đức Kitô là Đầu liên kết với Thân mình là Hội Thánh làm thành “Đức Kitô Toàn Thể” (Christus Totalis), theo trình bày của Thánh Âutinh. Đó là hiệu quả do lời nguyện Chúa Giêsu cầu cho các Tông đồ và tất cả mọi tín hữu: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người nầy, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con, để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta, Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,20-21). Vì thế, lời kinh Lạy Cha chúng ta dâng lên Thiên Chúa, phải là lời nguyện cầu liên kết với “Đức Kitô toàn thể”, nghĩa là trong hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô và hiệp nhất với mọi anh chị em mình. Trong xác tín đó, ĐGH Gioan Phaolô II đã ngỏ lời với mọi kitô hữu: “Đối với tất cả và từng người, lời nguyện tha thiết của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc ly: “Xin cho tất cả nên một!” phải trở thành một chương trình khẩn thiết và tất yếu cho cuộc sống và hoạt động mỗi ngày”(TH. Christifideles Laici 1988, số 64). Đó là chiều kích đích thực của ơn gọi kitô hứu là “bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu”( Cl 2,6) nhằm đạt tới mục tiêu Nên Một trong một  thân mình l Hội Thnh,  để được hiệp thông với Đầu là Đức Ki tô. Chính vì thế, “Hội Thánh ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại” (LG 1). Về hồng ân trọng đại nầy, và vì vai trò Hội Thánh được liên kết với Chúa Kitô Giêsu, Thnh Phaolơ mời gọi chng ta dâng lời cảm tạ tri ân “tôn vinh Thiên Chúa trong Hội Thánh và nơi Đức Kitô Giêsu đến muôn thuở muôn đời” (Ep 3,21).

THAY LỜI KẾT: NÊN MỘT VỚI ĐỨC KI TÔ

 Nhận Đức Giêsu Kitô làm Chúa (kyrios), để xây dựng đời mình trên nền tảng Đức Giêsu Kitô là thể hiện thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa: “thiên ý nầy là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1, 9-10). Vậy, thánh ý Thiên Chúa là quy tụ tất cả về một mối là Đức Kitô. Vì thế, Lm Bernard Haring nhận xét: “Quyền làm Chúa của Đức Kitô Giêsu là một chủ đề và một nhãn giới quan trọng trong nền đạo đức đặc trưng kitô giáo” (Bernard Haring CSsR. Tự Do & Trung Thành Trong Đức Kitô, t. I, tr.43). Lý do vì Đức Kitô là “Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người “(1 Tm 2,5), là “Con Đường” độc nhất dẫn đến Chúa Cha (x. Ga 14,6). Về giây chuyền quy tụ nầy, thánh Phaolô đã xác định: “Tất cả đều thuộc về anh  em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1 Cr 3,22-23). Đó chính là kế hoạch yêu thương Thiên Chúa dành cho chúng ta trong Đức Kitô Giêsu. Quả thật, vì yêu thương, Thiên Chúa Cha đã trao ban Con Một (x. Ga 3,16), để chúng ta được phúc “HIỆN HỮU TRONG ĐỨC KITÔ” (x.1 Cr 1,30); nhờ được “ HIỆP THÔNG VỚI NGÀI” (1 Cr 1,9), được “ĐỒNG HÌNH ĐỒNG DẠNG VỚI NGÀI” (Rm 8,29), để trong ân phúc nghĩa tử, “TRỞ NÊN LỜI NGỢI CA VINH QUANG THIÊN CHÚA” (Ep 1,5-6.12.14).  Nhờ NÊN MỘT VỚI ĐỨC KITÔ, chúng ta được hưởng sự sống thần linh bắt nguồn từ Chúa Cha (x. Ga 6,57; 3,16). Chính Chúa Kitô phục sinh đã trao ban cho chúng ta Thánh Thần là nguyên lý tác sinh (x. Ga 20,22; 7, 39). Bởi đó, Đức Kitô cũng đã ban cho chúng ta “Lời hằng sống” (x Ga 6,63), “Nước hằng sống” (x. Ga 7,38). “Ánh sáng ban sự sống” (x.Ga 8,12), Đặc biệt, Ngài là “Bánh hằng sống” (x. Ga 6,35.41), tức là Thánh Thể cực trọng của Ngài được trao ban, để chúng ta được ơn “ở trong Ngài, sống nhờ Ngài và được sống muôn đời” (x. Ga 6,56-58). Chúng ta, nhờ đó được kết hợp với  Đức Kitô trong cùng một nguồn sống, như cành nho gắn liền với cây nho (x. Ga 15,5). Vì thế, Ngài tha thiết mời gọi chúng ta “HÃY Ở LẠI TRONG NGÀI” (Ga 15,4), để “sinh hoa trái, vì không có Thầy, anh  em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Vậy, từ nơi Cha, Chúa Giêsu thông ban cho chúng ta sự sống (x. Ga 6,57), thì  Ngài cũng từ nơi Cha, chuyển đạt cho chúng ta tình yêu: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh  em như vậy. Anh em HÃY Ở LẠI TRONG TÌNH THƯƠNG CỦA THẦY” (Ga 15,9; 17,23). Hai lời mời gọi Ở LẠI nầy của Chúa Giêsu bao gồm hồng ân cứu độ và là nội dung đời sống tâm linh của chúng ta: Đức Kitô trở thành lẽ sống cho chúng ta. Vì  thế, Thánh Phaolô quả quyết được rằng: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô”(Ph 1,21). Và cụ thể hơn nữa: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Đó chính là mục tiêu của việc xây dựng đời sống trên nền tảng là Đức Giêsu Kitô. Vậy, chúng ta phải sống thế nào cho xứng hợp trong thực tế? Đức Kitô là Đấng Trung gian duy nhất của chúng ta, tất nhiên Ngài cũng phải là Trung tâm của tâm hồn và cuộc sống chúng ta. Vì Ngài là Sự Thật và là Sự Sống, thiết tưởng, đòi hỏi trước tiên phải là từ bỏ ngẫu tượng dưới mọi hình thức, bởi vì “chiều theo những dục vọng xấu xa…tham lam cũng là thờ ngẫu tượng”(1 Cr 10,6-7; Ep 5,5). Nhưng, ngẫu tượng dai dẵng nhất phải từ bỏ, lại chính là cái “Tôi” của chúng ta. Chính vì vậy, Chúa Giêsu đã chỉ thị rõ ràng cho chúng ta, ngay từ đầu: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Đó là điều kiện tiên quyết của lộ trình theo Chúa. Chân phước Têrêxa Calcutta suốt đời dấn thân phục vu bác ái cũng chia sẻ kinh nghiệm: “Tình yêu, nếu muốn tồn tại, phải được nuôi dưỡng bằng những hy sinh, nhất là hy sinh cái tôi”.(1001 Danh ngôn các thánh.Tr. 197,n. 932). Bởi vậy, cần phải  thức tỉnh nội tâm để có thể nhận thức: Đức Kitô có thực sự đang là trung tâm đời sống và hoạt động của chúng ta hay không? Thật đáng sợ và cần suy gẫm, điều Tin Mừng ghi lại: vào giờ phán xét, có những người đã phải ngỡ ngàng thưa với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” Thế mà, căn cứ vào thực trạng bất chính của tâm hồn họ, Chúa đành phải tuyên bố: “Ta không hề biết các ngươi!”(Mt 7,22-23). Chỉ có Thánh Thần sự thật mới cho chúng ta nhận thức sự thật về mình trước mặt Chúa. Vì vậy, Thánh Phaolô căn dặn chúng ta: “Tôi xin nói với anh  em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh  em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5,16). “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,25). Quả thật, qua tác động của Thần Khí Đức Kitô, đời sống tâm linh cũng chính là tiến trình kitô hóa con người toàn diện. Bởi vậy, một lần nữa cần nhắc lại, điều quan yếu vẫn là, qua việc tiếp nhận và thực hành các đức Tin, Cậy, Mến, chúng ta thể hiện trong cuộc sống, lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy ở lại trong Thầy! Hãy ở lại trong Tình Yêu của Thầy!” ( Ga 15, 4.9). Thực hiện “Ở LẠI” để được  thuộc về Chúa và tôn Ngài làm Chúa trong tâm hồn và cuộc sống. Như vậy, chúng ta sẽ được Ngài “SAI ĐI” (x. Ga 17,18), trở thành “sứ giả và chứng tá của Ngài” (x. Cv 1,8), với Tin Mừng Bình an và khí cụ là tình yêu cứu độ. Chính đây là nguồn động lực của sứ vụ tông đồ dưới mọi hình thức, phát xuất từ thúc bách của Tình yêu Đức Kitô. Quả thật, sứ vụ tông đồ là “được sai đi” làm chứng và chuyển đạt tình yêu của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu xác nhận: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17,18). “Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương Con, ở trong họ và Con cũng ở trong họ nữa” (Ga 17,26). Là sứ giả của Tình Yêu cứu độ, người môn đệ cần mang dấu ấn đặc thù của “Tình Yêu Giêsu” để có thể “ yêu anh  em tất cả, với tình thương của Đức Kitô Giêsu” (Ph 1,8). Đó là một Tình Yêu khiêm hạ, “tự hủy” (kenosis, x. Ph. 2, 6-8), Tình Yêu của Đấng đến để phục vụ và hiến tế mình trên thập giá cho muôn người được cứu rỗi (x. Mt 20,28). Như vậy, Thập giá đã trở thành chứng tích tình yêu cho chúng ta chiêm ngắm (x. Dt 12,2), để noi theo: “Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh  em, để lại một gương mẫu cho anh  em dõi bước theo Người” (1Pr 2,21). Cũng vì thế, Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta giới răn mới của Ngài: “Anh em hãy yêu thương nhau NHƯ Thầy đã yêu thương anh  em” (Ga 15,12). Thánh tông đồ Gioan đã từ đó rút ra hệ luận cho cuộc sống: “Căn cứ vào điều nầy, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh  em” (1 Ga 3,16). Và kế đó, thánh nhân đã hướng chúng ta vào cuộc sống cụ thế: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3, 18), khởi đầu với việc chia sẻ của cải vật chất…Điều nầy nhắc nhở chúng ta một chân lý rất quan trọng: đời sống tâm linh siêu nhiên luôn gắn liền với cuộc sống thực tế hằng ngày, trong cả những tình tiết nhỏ nhặt nhất, nhưng lại kèm theo một tình yêu lớn lao (x. Mt 25, 35-36). Tinh Yêu (agapé) bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha (x.Ga 15,9), được Chúa Giêsu thể hiện trong công trình cứu chuộc (x. Ga 15,13), và được đổ tràn vào lòng chúng ta qua Thánh Thần đã được trao ban (x. Rm 5,5). Vậy, chính nhờ đức mến mà chúng ta được hiệp thông vời Thiên Chúa, vì: “Thiên Chúa là Tình Yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,16).). Hiệp thông là hồng ân cao cả, nhưng cũng là sứ vụ quan trọng, tất cả chỉ được thực hiện nhờ kết hợp với Chúa Giêsu Kitô, và luôn xuyên qua tình mến (x. 1 Cr 13,4-7). Chỉ đức mến mới xây dựng hiệp nhất (x.Ep 4,16; 1 Cr 8,1), và dẫn đến hiệp thông. Nhưng, tình yêu để trở thành đức mến cần được  kiểm chứng bằng cuộc sống như được trình bày trong “bài ca bàc ái: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất” (1 Cr 13,4-8). Đó là “ân sủng cao quý” được trao ban (x. 1Cr 12,31),  là phương án sống cụ thể,  để đạt tới hiệp nhất NÊN MỘT, mục tiêu của việc xây dựng đời sống trên nền tảng là Đức Giêsu Kitô. Vì yêu thương, Ngài đã đến hiện diện “Ở VỚI, Ở GIỮA, Ở TRONG chúng ta”, (x. Ga 1,14; Mt 18,20; Ga 15,5-7) vì thế, Ngài tha thiết mời gọi chúng ta thực hiện “ Ở LẠI trong Ngài, trong Tình Yêu của Ngài”(x. Ga 15,4.9), để kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa được hoàn thành. Vì cảm nhận ân huệ cao cả diệu kỳ thể hiện qua Chúa Giêsu Kitô, Thánh Phaolô đặc biệt khuyên bảo chúng ta: “Như anh em đã nhận Đức Kitô Giêsu làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người….để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ” (Cl 2, 6-7). Quả thật, đây là hồng ân hiệp thông trọng đại chúng ta được hưởng, “nhờ ân sủng Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Thiên Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (2 Cr 13,13). Hướng về Đức Maria, chúng ta tuyên dương Thánh Mẫu  đã sinh hạ Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể trong lòng Mẹ, và nay, theo cảm nhận của Thánh Âutinh,  Mẹ đã trở thành “Khuôn mẫu thần linh” cho chúng ta. Nguyện xin Mẹ Maria, với tình Hiền Mẫu, trợ giúp chúng ta trong tiến trình kitô hóa con người và đời sống chúng ta (x. Ep 4,13),  để được cùng với Mẹ ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa Ba Ngôi, từ bây giờ và cho đến muôn đời.

M. Duy Ân

21-01-2011